19/12/2019 - 06:19

Cần chú trọng cơ sở pháp lý khi cho vay, mượn tài sản

Nhiều trường hợp cho người thân quen vay mượn số tiền lớn, nhưng không hề lập giấy tờ, biên nhận. Khi bên vay không trả lại số tiền đã vay, mượn, người cho mượn phải chịu thiệt thòi, mất thời gian vào các vụ kiện tụng.

Việc cho vay, mượn nợ bằng giấy tay, hiện nay vẫn diễn ra phổ biến.

Là bạn bè thân thiết, chị Nguyễn Thị L., ở phường Trà An, quận Bình Thủy, đã nhiều lần cho vợ chồng anh H. vay mượn, tổng cộng gần 1 tỉ đồng. Đến hạn trả nợ, vợ chồng anh H. cứ hẹn mãi. Chị L. cho biết: “Tôi đã nhiều lần hối thúc, nhưng vợ chồng anh H. cố tình trì hoãn, không trả lại số tiền đã mượn”.

Bà Lê Thị Ngọc Ánh, ở phường Trường Lạc, quận Ô Môn, cũng đã thỏa thuận cho bà Trần Mỹ Hạnh (ngụ cùng xóm) vay tiền, để xoay xở việc kinh doanh. Đến hẹn thanh toán số nợ, nhưng bà Hạnh cố tình trì hoãn, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Bà Ánh cho biết: “Tổng số tiền mà bà Hạnh vay của tôi là 880 triệu đồng. Sau nhiều lần bà Hạnh thất hứa, trì hoãn trả nợ, tôi đã nhờ cơ quan chức năng can thiệp”. Tương tự, bà Nguyễn Thị Ngọc Huệ, ở phường Thới An, quận Ô Môn nợ 77,6 triệu đồng của bà H. Giữa bà H. và bà Huệ chỉ làm giấy xác nhận nợ.

Thực tế, đối với nhiều mối quan hệ xã hội, không phải trường hợp nào cho vay cũng kèm theo giấy tờ. Ví dụ như cho bạn bè thân thiết, họ hàng vay tiền, nhiều người “ngại”, không hề có bất cứ một loại giấy tờ nào chứng minh. Do đó, khi xảy ra tranh chấp, nhiều người đã phải ngậm đắng nuốt cay mất số tiền cho vay. Thế nhưng, luật pháp cũng có những quy định bảo vệ quyền lợi những người cho vay không có giấy tờ chứng minh.

Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Theo Luật sư Nguyễn Văn Tuấn, Đoàn Luật sư TP Cần Thơ, việc cho vay, mượn tiền trong các trường hợp trên là giao dịch dân sự. Pháp luật quy định giao dịch dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Vì vậy, giao dịch vay mượn tiền nêu trên được pháp luật công nhận.

Thế nhưng, nếu xảy ra tranh chấp, thì người cho vay, mượn phải bằng mọi cách chứng minh được việc cho vay, mượn như: ghi âm lại lời nói hay có sự xác nhận từ người đi vay qua email, tin nhắn điện thoại, phương tiện điện tử khác... Tất cả những điều này có thể làm căn cứ, nếu xảy ra tranh chấp trước tòa. Tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây: tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập… Theo Luật sư Nguyễn Văn Tuấn, khi người cho vay, mượn có đầy đủ bằng chứng chứng minh người vay tiền của mình đã vi phạm nghĩa vụ phải trả đủ tiền khi đến hạn, thì người cho vay, mượn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người vay tiền phải có nghĩa vụ trả tiền vay theo quy định. Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, nếu bị đơn là cá nhân thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự là Tòa án cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc. Nếu trong trường hợp không biết nơi cư trú, làm việc của bị đơn, có thể khởi kiện tại Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết...

Những quy định trên của pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người cho vay trong trường hợp không có giấy tờ chứng minh khi xảy ra tranh chấp với người vay mượn. Tuy nhiên, để tránh rắc rối và đảm bảo quyền lợi của các bên, việc vay, mượn cần phải được thực hiện trên cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ.

Bài, ảnh: Chấn Hưng

Chia sẻ bài viết