02/07/2012 - 21:46

Bảo đảm quyền có việc làm cho các hộ nông dân thuộc diện có đất thu hồi

* NGUYỄN THANH TUẤN
PGS, TS Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

Bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tại nhiều vùng nông thôn đã diễn ra quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp để phục vụ việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị, các trung tâm dịch vụ và kết cấu hạ tầng hiện đại. Quá trình đó đang đặt ra vấn đề bảo đảm quyền có việc làm của các hộ nông dân thuộc diện có đất thu hồi.

1. Những yếu tố tác động đến việc làm của lao động nông thôn

Một là, sự biến động trong quy hoạch, quản lý, sử dụng đất nông nghiệp. Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010, bình quân hằng năm có gần 10 vạn héc-ta đất nông nghiệp được thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ, đô thị, đường giao thông... Khoảng 50% diện tích đất nông nghiệp được thu hồi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, trong đó, 80% thuộc loại đất màu mỡ có thể sản xuất 2 vụ lúa/năm. Hầu hết các khu công nghiệp, dịch vụ, đô thị... đều bám dọc các quốc lộ huyết mạch, được xây dựng ở các vùng nông thôn trù phú. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với đô thị hóa cộng với quá trình tăng dân số đã làm cho đất nông nghiệp bình quân đầu người giảm, hiện chỉ còn dưới 0,1ha/người (bình quân trên thế giới là 0,25ha/người).

Công nghiệp hóa, đô thị hóa là tất yếu khách quan trên con đường phát triển của đất nước, tuy nhiên, mặt trái của quá trình đó bị nhân lên gấp bội do những yếu kém trong công tác quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng đất cùng với tư tưởng chạy theo lợi ích kinh tế thuần túy trước mắt, dẫn đến tình trạng sử dụng đất nông nghiệp tùy tiện, lãng phí, thậm chí, bị ngầm chuyển đổi mục đích sử dụng mà cơ quan chức năng không quản lý được... Hệ quả là, hàng chục vạn héc-ta đất nông nghiệp màu mỡ, với tính cách là tư liệu sản xuất quan trọng và quý giá nhất của người nông dân đã bị sử dụng lãng phí, tác động tiêu cực đến hàng triệu lao động nông thôn. Nhiều người, do thiếu đất canh tác, không tìm được việc làm trong các khu công nghiệp, buộc phải chuyển đổi ngành nghề, hoặc phải di cư đến thành phố kiếm sống.

Hai là, sự biến động trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Từ giữa thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay, mặc dù đã diễn ra quá trình dịch chuyển cơ cấu lao động của nông dân, nhưng vẫn chưa tương xứng tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Năm 2009, giá trị nông nghiệp trong GDP giảm xuống còn 19,6%, trong khi tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn ở mức cao: 52,8%. Nghịch lý này phản ánh thực tế là công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn chưa đủ sức tạo việc làm mới để thu hút lao động nông nghiệp, trước hết, đối với các hộ nông dân thuộc diện có đất thu hồi.

Trong nông nghiệp, ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn; tỷ trọng lâm nghiệp còn thấp; chăn nuôi, thủy sản phát triển thiếu ổn định. Số lượng doanh nghiệp ở nông thôn còn ít, quy mô nhỏ; số doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản không nhiều nên phần lớn nông sản, kể cả nông sản xuất khẩu, có giá trị gia tăng thấp, chỉ số cạnh tranh chỉ ở mức trung bình hoặc dưới trung bình so với thế giới... là một trong những nguyên nhân làm chậm quá trình chuyển dịch và hạn chế chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.

Ba là, tình trạng ứ đọng lao động ở nông thôn. Mặc dù tỷ lệ tương đối người dân sống ở nông thôn giảm, nhưng số lượng tuyệt đối lại tăng lên. Năm 1990, dân số nông thôn là 53,1 triệu người, chiếm 80,5% dân số cả nước, đến năm 2010, tỷ lệ này giảm xuống, còn 71% nhưng số lượng tuyệt đối lại tăng lên, vào khoảng 63 triệu người. Trong khi đó, một phần diện tích đất nông nghiệp lại được thu hồi, nên tình trạng nông dân không có việc làm càng trở nên bức xúc hơn. Bình quân, mỗi năm ở nông thôn có khoảng 13-15 nghìn lao động không có việc làm. Trình độ của lao động nông thôn lại chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp. Theo thống kê, có trên 83% lao động nông thôn chưa qua khóa đào tạo khoa học - kỹ thuật nào; khoảng 18,9% lao động nông thôn đang làm việc chưa tốt nghiệp cấp tiểu học trở xuống. Vì thế, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm hoặc tự tạo việc làm tốt hơn đối với nhóm lao động này rất khó. Thêm vào đó, lề lối làm việc đặc trưng của ngành nông nghiệp truyền thống và tình trạng ruộng đất manh mún, nhỏ lẻ như hiện nay đã hạn chế tính chủ động, sáng tạo của người nông dân trong sản xuất, kinh doanh, cũng như khả năng tiếp cận thị trường của họ. Việc ứ đọng một lượng lớn lao động ở nông thôn đã thúc đẩy một bộ phận tìm cách di cư ra thành thị kiếm sống, số còn lại làm nghề phụ ở thôn quê. Thu nhập của lao động nông nghiệp, vì thế, thường thấp và thất thường bởi tính thời vụ và độ rủi ro cao. Đây chính là lý do khiến tỷ lệ nghèo tập trung chủ yếu ở nông thôn. Nghèo đói, thất nghiệp sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp.

Bốn là, các hệ lụy về xã hội, văn hóa, môi trường trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Sự hình thành trên địa bàn nông thôn những khu công nghiệp, khu đô thị mới,... đã nâng giá trị sử dụng của đất lên rất nhiều lần, tạo ra những ngành nghề và việc làm mới, nâng cao giá trị lao động và cải thiện đời sống của một bộ phận đáng kể các hộ nông dân thuộc diện có đất thu hồi. Tuy nhiên, quá trình này cũng làm cho nhiều giá trị văn hóa truyền thống ở làng quê ngày càng trở nên mờ nhạt. Nhiều hiện tượng văn hóa mới, thậm chí có những nét xô bồ, lệch lạc, thâm nhập, phát tán ngày càng rõ ở nông thôn, làm tha hóa một bộ phận dân cư nông thôn, đặc biệt là giới trẻ, bào mòn và làm rạn nứt quan hệ tương thân, tương ái, đồng thuận trong cộng đồng nông thôn.

Khi có thể được chuyển thành đất công nghiệp, thương mại và đô thị thì đất nông nghiệp trở thành một thứ tài sản mà ai cũng muốn chiếm giữ. Và khi quyền sử dụng đất bị thu hồi thì xuất hiện hàng loạt những hệ lụy pháp lý, xã hội, văn hóa, như chiếm dụng đất, thất nghiệp và các tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm...).

Đồng thời, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, đô thị hóa cũng gây ra nhiều hệ lụy đối với môi trường ở nông thôn. Tài nguyên đất nông nghiệp bị khai thác triệt để, diện tích cây xanh và mặt nước giảm, ô nhiễm môi trường, đặc biệt ô nhiễm môi trường nước ngày càng gia tăng.

2. Một số giải pháp góp phần bảo đảm quyền có việc làm của các hộ nông dân có đất thuộc diện thu hồi

Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) đã đề ra phương hướng là: “Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm”(1). Để triển khai phương hướng trên, cần thực hiện những nhóm giải pháp sau:

Một là, xây dựng và triển khai một chương trình về đào tạo nghề cho những người thuộc diện có đất thu hồi

Đây là giải pháp có tính cấp bách cần được triển khai thống nhất từ Trung ương đến địa phương, để tránh tình trạng người dân, sau khi nhận tiền đền bù ruộng đất một thời gian, lâm vào tình trạng thất nghiệp và không có thu nhập, từ đó phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. Mấu chốt là từ khâu quy hoạch, cấp phép đầu tư cho đến xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài “hàng rào” các khu công nghiệp, sân gôn, khu đô thị mới,... phải có kinh phí cho việc đào tạo nghề đối với người dân bị thu hồi đất. Phương châm là đào tạo không tràn lan, mà phải phù hợp với nhu cầu của lao động tại từng địa phương (huyện, tỉnh), có kết nối với Chương trình việc làm quốc gia.

Các giải pháp cụ thể gồm:

- Tiếp tục đào tạo nghề theo các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Đây là hình thức đào tạo đã khá ổn định, nhưng cần tiếp tục mở rộng đối tượng tham gia và nâng cao chất lượng đào tạo; thu hút những người tham gia đào tạo vào mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Chỉ khi “đầu ra” được bảo đảm, người học mới yên tâm thực hành nghề được đào tạo, nhờ đó có thể phát triển được kinh tế gia đình, giảm cường độ và mức độ làm thuê.

- Hỗ trợ đào tạo nghề theo chiến lược xuất khẩu, kể cả hỗ trợ đào tạo nghề để tham gia xuất khẩu lao động. Nền nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung đã và sẽ tiếp tục hướng về xuất khẩu. Do đó, đào tạo nghề theo chiến lược xuất khẩu là một phương hướng thực hành nghề rất quan trọng cho lao động nông thôn, nhất là đối với các hộ nông dân thuộc diện có đất thu hồi.

- Kết hợp “truyền nghề” với đào tạo chính quy. Truyền nghề là hình thức đào tạo dân gian, cho đến nay, vẫn rất phổ biến tại các làng nghề. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các nghệ nhân, những người thợ lành nghề, nhất là tại các làng nghề, mở các lớp đào tạo theo kiểu truyền nghề; hoặc liên kết với các trường dạy nghề để đào tạo theo kiểu bán chính quy.

- Liên kết cơ sở đào tạo, cơ sở cung ứng lao động và cơ sở tuyển dụng lao động để đào tạo nghề. Đây là giải pháp có tính xã hội hóa, nhằm hướng vào những lao động và doanh nghiệp ở nông thôn có nhu cầu đào tạo nghề cho mình và cho những người khác. Sự liên kết giữa họ với các trường dạy nghề sẽ thúc đẩy hình thành mạng lưới các điểm đào tạo nghề theo hướng chính quy và bảo đảm “đầu ra” của công tác đào tạo. Giải pháp là, một mặt, tiến hành liên kết “ba nhà” - cơ sở đào tạo, cơ sở cung ứng lao động và cơ sở tuyển dụng lao động trong việc đào tạo nghề mới hoặc đào tạo lại đối với những người đã qua đào tạo, nhằm thỏa mãn yêu cầu nguồn lao động có chất lượng cao của các cơ sở tuyển dụng. Thông qua đó, bảo đảm công tác đào tạo gắn với tuyển dụng, với yêu cầu lao động thực tế tại các doanh nghiệp. Mặt khác, cần khuyến khích hoặc có chính sách, ví dụ miễn hoặc giảm thuế, để các doanh nghiệp, các làng nghề dành ngân sách cho việc đào tạo, bồi dưỡng lao động trẻ có năng lực tại chỗ, thay vì tuyển dụng từ bên ngoài rất tốn kém và thiếu ổn định.

- Hỗ trợ cho vay vốn để học nghề, nhất là đối với các hộ nông dân nghèo. Chi phí cho việc học nghề, hoặc chuyển đổi nghề là một vấn đề lớn đối với người nghèo. Vì vậy, cần có chính sách giảm chi phí học nghề, ví dụ, bằng cách hỗ trợ cho vay vốn để đào tạo nghề cho hộ nông dân nghèo. Bên cạnh đó cần có chính sách ưu đãi để người dân sau khi đi học nghề có thể có việc làm phù hợp ở địa phương, hoặc việc làm tại các doanh nghiệp được xây dựng trên đồng ruộng trước đây của họ.

Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thị trường lao động cho những người “làm công ăn lương” ở nông thôn

Nhóm này gồm các giải pháp sau:

- Xác định rõ vai trò và định hướng chính sách tương đối độc lập cho đội ngũ làm công ăn lương ở nông thôn. Những người nông dân bị thu hồi đất, dĩ nhiên, phải gia nhập thị trường lao động tự do. Họ trở thành những người làm công ăn lương. Nhưng cho đến nay chúng ta đánh giá chưa đúng, chưa đủ vai trò của đội ngũ này ở nông thôn trong sự nghiệp xây dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Không nên nhìn nhận đội ngũ này chỉ ở hiện tượng “lao động cửu vạn” và chỉ mang lại áp lực lớn cho đô thị. Thực ra đội ngũ này thể hiện cho sự giải phóng lực lượng sản xuất ở khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Vai trò của đội ngũ này nên được xác định là: lực lượng đột phá trong việc giải quyết vấn đề “tam nông”; kết nối quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa giữa nông thôn và đô thị trong sự nghiệp xây dựng xã hội công nghiệp theo hướng hiện đại; là một lực lượng thúc đẩy quá trình “công nhân hóa” các giai tầng xã hội nhằm phát triển ngày càng đông đảo đội ngũ những người lao động công nghiệp và dịch vụ, trước hết ở nông thôn.

Có thể căn cứ vào các vai trò trên đây của đội ngũ làm công ăn lương ở nông thôn để xác định nội dung các chính sách tương đối độc lập đối với đội ngũ này.

- Nhanh chóng xóa bỏ những phân biệt không hợp lý của thị trường lao động ở thành phố nhằm tạo mặt bằng cạnh tranh bình đẳng cho những người lao động nhập cư vào đô thị. Hiện nay chúng ta đang tiến hành đổi mới cách thức quản lý đô thị, trong đó có việc đổi mới quản lý hộ tịch. Đây là vấn đề liên quan đến nhiều vấn đề khác, ví dụ an ninh xã hội, nên rất khó thực hiện việc xóa bỏ quản lý hộ tịch. Thế nhưng, hiện nay tồn tại tình trạng một số việc làm ổn định có thu nhập tốt chỉ tuyển dụng người có hộ khẩu ở thành phố; hoặc cùng một công việc nhưng thù lao có sự chênh lệch giữa “lao động nhập cư” và lao động thành phố; hoặc người “lao động nhập cư” rất khó đăng ký sản xuất - kinh doanh và cho con nhập học do không có hộ khẩu hoặc nhà ở tại thành phố. (Mới đây Hà Nội đã có chính sách cho phép những người ngoại tỉnh không có hộ khẩu nhưng vẫn được đăng ký mua nhà). Cần tiếp tục đổi mới theo hướng này để những người làm công ăn lương ở nông thôn khi thực hiện lao động, sản xuất - kinh doanh tại thành phố không vấp phải những rào cản quá lớn.

Chính sách bảo đảm quyền lợi đối với đội ngũ lao động nông thôn di cư vào thành phố cần tập trung xóa bỏ sự phân cách không hợp lý trong thị trường lao động làm công ăn lương giữa nông thôn và đô thị. Trên cơ sở tuyên truyền rộng rãi, cần tăng cường giám sát và kiểm tra, giáo dục về cách thức cạnh tranh bình đẳng, tôn trọng nhân cách và lao động của những người lao động nhập cư vào thành phố.

- Tích cực điều tiết và tạo việc làm cho lao động nhập cư. Cần tích cực điều tiết lao động nhập cư từ nơi thừa sang nơi thiếu. Nên có hình thức liên kết giữa các trung tâm giới thiệu việc làm tại những địa phương có nguồn lao động dồi dào và các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng nhiều lao động để bù đắp lao động thiếu hụt. Mặt khác, tại những địa phương đang có nhu cầu tuyển dụng nhiều lao động cũng có hàng nghìn, thậm chí hàng chục nghìn lao động tại chỗ, vẫn đang ở trạng thái thăm dò, hoặc đang tìm cách xin việc nhưng không biết nơi cần tuyển dụng. Do đó cần có hình thức thông tin thích hợp và trực tiếp tại các khu nhà trọ của người lao động nhập cư để tuyển dụng họ.

Tính chất nhập cư lưu động của những người làm công ăn lương ở nông thôn gây khó khăn cho việc kết nối giữa người lao động và người sử dụng lao động, khi mà người lao động nhập cư quen tìm việc theo kiểu “truyền tai, rỉ tai” cho nhau, trong khi trang web về việc làm tại một số tỉnh, thành, với rất nhiều thông tin doanh nghiệp cần tuyển dụng lao động lại không đến được người lao động. Tình trạng thấp kém trong việc sử dụng vi tính nói riêng và trình độ chuyên môn kỹ thuật nói chung đang cản trở cách thức tìm kiếm việc làm ở tuyệt đại đa số người lao động nông thôn. Từ đó dễ dẫn đến tình trạng thăm dò, băn khoăn về lương thấp, công việc không phù hợp, xa nhà trọ, chế độ không rõ ràng v.v...

Giải pháp là tăng cường phổ biến sâu rộng, ví dụ bằng tờ rơi, bằng mạng lưới truyền thanh của xã, phường, doanh nghiệp..., và bằng trang web về việc làm tại các khu nhà ở, nhà trọ của công nhân nông thôn để hướng dẫn họ cách thức tìm kiếm việc làm theo con đường chính thức và tiện ích này.

- Điều tiết và tạo việc làm cho lao động nông thôn “ly nông bất ly hương”. Cần có chính sách và biện pháp phối hợp cụ thể giữa các bộ, ngành, ví dụ giữa Bộ Công thương và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa nhằm bảo đảm và tạo việc làm cho những người làm công ăn lương ở nông thôn, đặc biệt tại các làng nghề, các hợp tác xã tiểu - thủ công nghiệp trên cả nước.

Ba là, hạn chế số hộ nông dân bị thu hồi đất để tiết chế tình trạng biến động về lao động ở nông thôn.

Về nguyên tắc, để thực hiện được việc làm, bao giờ cũng phải có sự kết nối giữa sức lao động và tư liệu sản xuất. Đối với người nông dân, nếu không có ruộng đất thì không thể tạo ra được việc làm cho bản thân và gia đình. Nói cách khác, quyền có việc làm của nông dân chỉ được tôn trọng, bảo vệ và thực hiện khi kết nối được với ruộng đất. Do đó các ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chú ý tiếp thu ý kiến của chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn) trong việc tổng kết, rà soát lại hệ thống quy hoạch trên địa bàn địa phương để bảo đảm việc sử dụng đất nông nghiệp, nông thôn có hiệu quả nhất.

Hiện nay, phần lớn các dự án lấy đất nông nghiệp làm khu công nghiệp, khu đô thị mới... thường được phê duyệt từ trên xuống. Tiếng nói của chính quyền xã rất yếu, đối với các dự án chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Kinh nghiệm việc triển khai xây dựng một số khu công nghiệp, đô thị, đặc biệt khu nghĩa trang, khu chế biến rác thải cho thấy, nếu không được sự đồng thuận của người dân sở tại thì rất khó khăn, và thường gây nên những cuộc khiếu kiện, phản ứng kéo dài, phức tạp. Vì thế phải có sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, trong đó không thể thiếu ý kiến của chính quyền xã.

Tình hình hiện nay đặt ra thách thức lớn là phải sử dụng đất như thế nào cho thật hợp lý; cần tránh xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị... trên đất phù hợp với hoạt động nông nghiệp thâm canh. Với những dự án đã được triển khai nhưng chưa đưa vào sử dụng, để đất hoang hóa, cần có biện pháp kịp thời giải quyết theo hướng bảo đảm quỹ đất cho phát triển nông nghiệp một cách hợp lý.

Theo Tạp chí Cộng sản online

----------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2011, tr 198

Chia sẻ bài viết