14/10/2019 - 21:02

“Dân Vận” - Một bài viết còn vẹn nguyên giá trị thời sự về lý luận và thực tiễn 

PGS.TS NGUYỄN HỒNG VINH

Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng

Nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân

I. Bối cảnh ra đời

Bài “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được báo Sự Thật đăng toàn văn ngày 15-10-1949. Trước thi đim công b bài viết quan trng này, trên báo Sự Thật t tháng 6-1949, ln lượt đăng: Thư gi Hi ngh Thi đua ái quc (6-1949); Thư gi lp hc viết báo Hunh Thúc Kháng (7-1949); Thư gi các đồng chí Liên khu IV (9-1949); Thư gi Hi m các chiến sĩ Liên khu IV. Sau bài Dân vn (15-10-1949), Bác viết Thư gi lp chun b tng phn công Trường trung hc Lc quân Trn Quc Tun (9-11-1949); Thư gi Hi ngh cán b nông dân cu quc toàn quc (11-1949)…

Ngày 19-12-1949, báo Sự Thật đăng Li kêu gi nhân dp ba năm toàn quc kháng chiến ca Bác H, trong đó nêu mt nhn định quan trng: Bn phn gian nan cc kh, ta đã vượt được ba phn. Ch còn mt phn na. Nhưng phn này là phn cui cùng, nó s gay go hơn. Vi lc lượng đại đoàn kết ca toàn dân, vi chí khí anh dũng ca toàn dân, chúng ta quyết khc phc khó khăn cui cùng này, cũng như chúng ta đã khc phc nhng khó khăn trong ba, bn năm va qua. Vượt khi phn khó khăn này là ta hoàn toàn thng li[1].

Như vậy, xét về khía cạnh công tác tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chủ động dự báo diễn biến tình hình cách mạng ở những thời điểm có tính bước ngoặt để trước hết định rõ nhiệm vụ của công tác tuyên truyền, cổ động toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhằm phát huy những thành tựu to lớn trong ba năm tiến hành công cuộc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc,  đồng thời chỉ rõ những khó khăn, thách thức mới; trên cơ sở đó huy động sức mạnh cao nhất của toàn xã hội bước vào giai đoạn tổng phản công kẻ thù. Đó là một nhiệm vụ cực kỳ cam go, nhưng chắc chắn sẽ giành thắng lợi vì chúng ta đã tạo ra nhiều tiền đề quan trọng của ba năm trước. Để đạt được mục tiêu cách mạng đó, một trong những nhiệm vụ cấp bách là tiếp tục khơi gợi lòng yêu nước của mỗi người dân, huy động nguồn sức mạnh về vật chất và tinh thần to lớn còn tiềm ẩn trong dân; tăng cường giáo dục, động viên, tập hợp các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v…) vào nhiệm vụ đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, giải phóng miền Bắc, hỗ trợ cách mạng ở miền Nam. Vì thế, hơn bao giờ hết, công tác dân vận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc bồi đắp ý chí quyết tâm kháng chiến giành thắng lợi trên cơ sở các tầng lớp nhân dân ta tự nguyện, hồ hởi tham gia phong trào thi đua sản xuất, diệt giặc, lập công với ý chí vượt lên mọi gian khó, hi sinh để giành lại bằng được độc lập, tự do cho Tổ quốc. Bài “Dân vận” ra đời trong bối cảnh nói trên, đúng như Bác khẳng định: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”[2].

II. Giá trị lý luận - thực tiễn của bài viết

Bài viết gồm 4 phần rành rọt:

I. Nước ta là nước dân chủ.

II. Dân vận là gì?

III. Ai phụ trách dân vận?

IV. Dân vận phải thế nào?

Mở đầu, Bác nói lý do viết bài báo này: “Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại”.

Đề cp nhng ni dung căn ct ca bài viết, Bác khng định lun đim đầu tiênNước ta là nước dân chủ vi 6 ni hàm, ri nhn mnh: Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Như vậy, không phải ngẫu nhiên, trong 7 dòng ngắn gọn của phần I này, chữ DÂN được Bác nhắc tới 7 lần. Trải qua 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước ở khắp năm châu bốn biển; sau này trên cương vị là lãnh tụ cao nhất của Đảng, Nhà nước, Bác luôn canh cánh trong lòng một tâm nguyện: làm cho nước nhà được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Mục tiêu cao đẹp ấy cũng chính là bản chất của chế độ dân chủ. Bác nói ngắn gọn: Dân chủ tức là dân làm chủ. Và điều ấy chỉ có thể biến thành hiện thực khi chế độ dân chủ được thiết lập; và những người lãnh đạo quốc gia ấy khi đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật… phải lấy dân làm đối tượng trung tâm, phi phc v li ích cdân, luôn chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân, coi đó là thượng sách dng nước và gi nước. Bn cht ca chế độ phong kiến, tư bn hoàn toàn đối lp vi bn cht chế độ dân ch vì xét cho cùng, mi li ích đều phc v giai cp thng tr; dân chđối tượng b bóc lt, b bòn rút sc lao động mà thôi. Đề cao vai trò, v trí quyn lc cdân, Bác Hồ đã nghiên cứu rất kỹ và tiếp thu luận điểm “lấy dân làm gốc” ca các v vua anh minh trong các triu đại phong kiến nước ta và các hc gi ni tiếng thế gii. Năm 1010, Thái T Hoàng đế trong Chiếu di đôđã viết: Trên kính mnh tri, dưới theo lòng dân, nếu có ch tin thì di đô. Trong xây dng h thng pháp lut, Thái Tông Hoàng đế coi trng vic xét x công minh, bo v quyn li người dân. Ông cho xây lu chuông, nhân dân ai có kin tng, oan ung thì đánh chuông lên để vua biết đến mà trc tiếp t chc xét x. Mùa xuân năm 1286, Thánh Tông Hoàng đế nhà Trn nói: Thiên h là thiên h ca t tông, người ni nghip ca t tông nên cùng vi anh em trong h hưởng phú quý; tuy bên ngoài thì là c thiên h phng mt người tôn quý, nhưng bên trong thì ta cùng vi các khanh là đồng bào rut tht, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui, các khanh nên ly câu y mà truyn cho con cháu để nh lâu đừng quên, thế là phúc muôn năm ca tôn miếu xã tc vy[3].

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã thấm sâu tư tưởng khoan thư sức dân, dựa vào nhân dân của Hưng Đạo Vương để xây dựng và bảo vệ đất nước: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”[4]. Chúng ta hiểu rõ vì sao khi về thăm Côn Sơn ở huyện Chí Linh (Hải Dương), Bác Hồ đã dừng lâu đọc kỹ những dòng bia khắc ghi lời Nhà văn hóa lớn của dân tộc ta. Nguyễn Trãi – người đã có những luận điểm sâu sắc về sức mạnh nhân dân: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Thể hiện rõ tư tưởng “nước lấy dân làm gốc”, Nguyễn Trãi cho rằng “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc”, phải “trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”[5] thì lòng dân mi an. Và do vy, câu đầu trong bài Bình Ngô đại cáo, Nguyn Trãi khng định: Vic nhân nghĩa ct yên dân. Theo li k ca đồng chí Vũ K, Thư ký ca Bác: ngày 19-5-1965, Bác đi thăm quê Khng T Trung Quc. Bác nói rng, t nhng năm 20 thế k XX, Bác đã nghiên cu v Khng T. Người đặc bit chú ý lun đim nước ly dân làm gc ca Khng T. Tiếp thu nhng nhân t tích cc ca Nho giáo: Dân duy bang bn, bn c bang ninh (Dân chính là gc r ca đất nước, gc r có vng chc thì nước mi yên). Ri Dân vi quý, xã tc th chi, quân vi khinh (Dân là quý nht, đất nước là hàng th hai, vua ch nên xem nh). Có l t nhng lun đim quan trng này, qua tri nghim ch đạo cách mng Vit Nam, Bác H đã tng kết mt chân lý v sc mnh bt dit ca Nhân dân:

Gốc có vững, cây mới bền

Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân

III. Biến lý luận thành hành động cụ thể

Trong nội dung bài “Dân vận”, Bác Hồ đã đề cập và nhấn mạnh: để làm tốt công tác dân vận, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp phải hiểu và giải quyết thật tốt các mối quan hệ cơ bản sau đây: quan hệ giữa nhn thc (v vai trò, v trí ca nhân dân trong quá trình cách mng) vhành động ca cán b (để tn ty phc v nhân dân); quan h v quyền lợi và nghĩa vụ ca người dân vi t chc (mi quyn hành, lc lượng đều nơi dân, nhưng dân có nghĩa v thc hin các nhim v ca t chc giao); quan h gia đề ra chủ trương và t chc thc hin; quan hệ giữa ni dung (đề ra các phong trào thi đua đúng trng tâm) vhình thc thích hp (có tính tp hp mi lc lượng cùng làm; không phô trương, nói suông…); quan h giyêu cầu cách mạng và phẩm chất cán bộ (phải đủ đức, tài và sâu sát nhân dân); quan hệ giữa công tác ch đạo vkim tra, giám sát (để rút ra kinh nghim, kp thi khen thưởng, phê bình). Như vy, t thc tin ca ba năm tiến hành kháng chiến kiến quc, Bác H đã tng kết thành nhng vn đề lý lun rt sinh động, d hiu, d làm.

Nhưng khác với các bậc tiền nhân, Bác Hồ rất coi trọng việc chuyển từ nhận thức lý luận sang tổ chức hành động, sao cho thiết thực và hiệu quả. Đã không ít lần, Bác nhấn mạnh: Thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng; lý luận không có thực tiễn là lý luận suông”. Chính vì vậy, trong bài “Dân vận”, sau khi trình bày về mặt nhận thức thế nào là “dân chủ” và “dân vận”, Bác đề cập bốn việc phải làm tiếp theo là: 1) Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân. 2) Tổ chức, động viên toàn dân thực hiện. 3) Theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân làm việc có lợi cho số đông. 4) Xong việc phải sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng.

Để làm được nhng vic nêu trên, theo Bác, cán b là khâu quyết định. Tt c cán b chính quyn, tt c cán b đoàn th và tt c hi viên ca các t chc nhân dân (Liên Vit, Vit Minh, v.v…) đều phi ph trách dân vn. Cán b phi gương mu, tiên phong làm kiu mu cho dân. Bác lưu ý: nhng người ph trách dân vn cn phi óc nghĩ, mt trông, tai nghe, chân đi, ming nói, tay làm, ch không phi ch nói suông, ch ngi viết mnh lnh.

Thực hiện lời chỉ bảo nêu trên, vừa qua, Trung ương Đảng ta đã ban hành Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên các cấp, trước hết là đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị, địa phương. Đây cũng là cơ chế làm việc nhằm thực hiện có hiệu quả phương châm: nói đi đôi với làm; nói ít làm nhiều; công khai minh bạch; dân giám sát, kiểm tra mọi hoạt động của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể. Thực tiễn chỉ ra rằng, khắc phục bệnh quan liêu, nói suông, xa dân… là cuộc đấu tranh cam go giữa cái cũ và cái mới, giữa tư tưởng bảo thủ và tiến bộ, giữa yêu cầu ngày càng cao của cách mạng với biểu hiện bằng lòng với cái gì đã có, thỏa mãn cá nhân, dậm chân tại chỗ… Chỉ có thể khắc phục những biểu hiện tiêu cực ấy khi từng cán bộ, đảng viên nghiêm túc thực hiện các yêu cầu mà Bác đã nêu ra cách đây 70 năm là: phải óc nghĩ, tức là phải đổi mới tư duy, nhận thức đúng quy luật phát triển; phải mắt trông, tức là luôn quan sát, nắm bắt sự vận động của thực tiễn; phải tai nghe, tức là hiểu được dân đang nói gì, muốn gì ở Đảng; phải miệng nói, tức là chỉ ra điều hay, lẽ phải trong việc đưa chủ trương, chính sách vào cuộc sống; phải tay làm, tức là phải xắn tay áo hành động, làm mẫu để nhân dân noi theo…

Một thời kỳ mới của cách mạng nước ta đang thúc giục mọi người Việt Nam yêu nước tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập sâu rộng quốc tế trong bối cảnh thời cơ và thách thức đan xen. Không có “chiếc đũa thần” nào màu nhiệm bằng cách khơi gợi và bồi đắp “sức dân như nước” – cơ sở quan trọng để tạo ra sự đồng thuận xã hội rộng lớn, tất cả nhằm đáp ứng mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta càng vững tin lời Bác dạy: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”[6].

Tháng 9-2019

N.H.V

-------------------

[1] H Chí Minh toàn tp, tp 5, Nhà xut bn Chính trị quc gia, H.2009

[2] Sđd, trang 698.

[3] Ngô Sĩ Liên các s thn triu Lê, Đại Vit s toàn thư trn b, NXB Văn hóaThông itn, H.2011, trang 243.

[4] Ngô Sĩ Liên, Sđd, trang 303.

[5] Nguyn Trãi toàn tp, NXB Khoa hc xã hi, H.1976, trang 440.

[6]  Sđd, trang 700.

Chia sẻ bài viết