Truyện ngắn HỒNG SA
Trên đường Trường Sơn, một đêm trăng sáng. Tôi thường mắc võng nằm gần Ân để nghe cậu ta kể những chuyện tào lao mà có tác dụng thư giãn sau một ngày hành quân vất vả. Hôm nay, vừa "ngự" trên chiếc võng là câu chuyện được mở đầu ngay, dường như cậu ta đang cần trút nó ra cho nhẹ bầu tâm sự. Cậu ta nói:
- Về tới miền Nam, thế nào tao cũng tìm về Phú An ở gần biên giới để trả một món nợ ân tình. Chưa làm được việc này thì tao chết cũng chưa "ra đi" được. Chính do món nợ này mà tao lấy tên là Vạn Ân để không bao giờ quên.
Tôi đang chuẩn bị tinh thần để nghe một câu chuyện tình cảm hiếm thấy ở anh chàng hay nghịch ngợm này, thì bỗng nhiên cậu ta phát cười. Tôi cứ để cho cậu ta cười, trong bụng băn khoăn, không biết câu chuyện mà cậu ta sắp kể là vui hay buồn.
...Đầu năm 1947, tao mới nhập ngũ, còn khờ lắm. Đứng gác mà còn sợ ma. Đi nắm tình hình địch ở ngoài đồn mà có lần tao không biết đường về. Trong một trận đánh ở gần biên giới Campuchia, tao bị thương ngang hông. Anh em đưa tao về phía sau, nhưng tao thấy có thể đi một mình được, nên tao đề nghị anh em trở lại chiến đấu, vì quân số của mình còn ít quá. Nhưng đi loanh quanh một hồi, tao bị lạc. Ở vùng này, trời nước mênh mông, không còn biết đâu là đâu nữa. Tao cứ đi mãi, đi mãi. Bụng đói. Máu ra nhiều. Tao muốn xỉu, lết dần từng bước. May sao, tao gặp hai bác nông dân. Thấy tao trong tình trạng như vậy, hai bác lột khăn trên đầu băng bó tạm, rồi đưa tao vòng quanh qua nhiều con kênh nhỏ, đến một xóm gọi là Phú An. Đúng là may. Nếu không gặp hai vị cứu tinh này thì tao toi mạng rồi. Nhờ có sự chăm sóc sơ bộ của hai bác nông dân, tao tỉnh dần. Chỉ một giờ sau, bà con tới chật nhà, bánh trái chất đầy bàn, một trung đội ăn cũng không hết. Có một chị, chắc là nhân viên y tế của địa phương, mở cái khăn rằn ra, rửa vết thương và băng lại. Tao nhìn chị mà thấy toát ra một tình cảm sâu sắc. Lúc ở nhà, má cưng tao ghê lắm. Mỗi khi tao bị té, mình mẩy bị trầy trụa, má tao thường lấy mấy hột muối, nhai nhỏ với lá ổi, rồi đắp vô chỗ bị xây xát, vậy là xong. Sự chăm sóc của chị cứu thương làm tao cảm động quá chừng. Rồi các bà, các cô nữa. Người lo nấu nước, người lo giặt quần áo
Các bà cứ thay phiên nhau ở bên tao. Hồi đó chưa có Hội mẹ chiến sĩ nên tao không dám gọi ai bằng mẹ. Có mấy bà giống má tao quá, cứ ngồi quạt cho tao, làm tao rất nhớ nhà
Nghe kể đến đây, tôi cắt ngang:
- Đồng bào ở đâu cũng vậy, thương bộ đội là dĩ nhiên rồi. Đối với thương binh thì lại càng yêu quý. Nhưng câu chuyện tình nghĩa như vậy mà sao mày cười dữ vậy? Hay mày có nghịch ngợm gì với đứa nào ở tại địa phương? Hay cô y tá, y tướng gì đó? Mày kêu bằng chị nghe ngọt lịm, nhưng tao thấy có những chị tình nguyện xuống làm "em" lắm nghen. Lệch "pha" vài ba tuổi, có nhằm nhò gì
Ân phản ứng ngay:
- Bậy, bậy, đừng nói bậy. Hồi đó, tao nhỏ xíu mà yêu thương cái nỗi gì
Chị ấy bằng chị Hai tao, tao đâu dám phạm thượng. Tao cười vì có một chuyện liên quan tới địa phương này. Chuyện này làm tao rất thấm thía về sức mạnh của cách mạng. Hồi thời giặc Pháp còn cai trị, cả làng này phần lớn làm nghề ăn trộm, hoặc liên quan đến các vụ trộm trâu!
Tôi lấy làm lạ, thắc mắc:
- Làm gì có cái việc cả làng ăn trộm. Đừng có khịa ra cái chuyện ba trợn
Ân bật ngồi dậy trên võng, nói:
- Đó là chỗ ân tình, tao đâu có nói xấu được. Làng này ở sát biên giới, lại nằm giáp ranh hai tỉnh. Thường thì dân ở các vùng như vậy, khó trị lắm. Khi có lính bên này đến bắt, thì họ chạy sang bên kia, hoặc né luôn qua biên giới. Vậy là an toàn, vì cái ranh giới không cho phép bọn lính tỉnh này hoạt động qua tỉnh khác, càng không được vượt qua nước khác, trừ những trường hợp đặc biệt. Mà bọn lính cũng chẳng thiết vượt vì như vậy có khi bị ăn đòn, thà làm bộ hò hét một hồi, sướng cái thân hơn. Cho nên, "các vị" cứ nghe ngóng, chờ khi bọn lính rút lui, bèn làm một vụ trộm "liên tỉnh" hay "xuyên quốc gia" rồi về cho khỏi mất "sở hụi" trong thời gian lẩn tránh. Ở những làng này, ai từ đâu tới mà có bị mất trộm vật gì thì đừng có tới làng mà thưa cho uổng công, vì từ ông cả, ông chủ, ông hương quản cho đến anh cai tuần, đều có liên quan đến bọn trộm, hoặc chính là kẻ trộm. Có ông đi ăn giỗ, mặc áo dài, đội khăn đóng hẳn hoi, mà trong lưng vẫn mang theo một sợi dây "vàm" dùng để xỏ mũi trâu. Dọc đường, hễ gặp "đối tượng" là lập tức cởi áo, lột khăn, lấy dây "vàm" ra, buộc vô mũi trâu, phóc lên lưng nó, ra roi
Khi đem trâu về tới "phồn", tức là nơi dùng để nhốt những chú trâu vừa trộm được, các vị "hảo hán" thay hình, đổi dạng trâu ngay. Muốn làm cho bộ sừng khác đi, họ nướng cây chuối cho nóng, rồi đút cái sừng trâu vô đó, uốn cho rộng ra hay hẹp lại tùy theo ý muốn một cách dễ dàng, vì cái sừng trâu bị mềm đi, do sức nóng. Nếu muốn xóa đi những xoáy cũ, làm thêm xoáy mới trên lưng hay dưới bụng, họ chỉ cần dùng một cái bàn chải sắt, đặt lên bếp cho nóng, rồi chải chải vô cái xoáy cũ để thủ tiêu dấu vết của nó đi, hoặc chà vòng vòng ở những chỗ không có gì, tạo ở đó thành một cái xoáy mới. Đôi khi chủ trâu bắt được, có kiện thưa thì cũng không ai làm gì được, vì hình dáng, dấu vết con trâu so với giấy tờ thì đã khác hẳn rồi.
Ân tiếp:
- Vậy mà cũng có trường hợp bị "phản phé". Một lần, một vị "hảo hán" do sơ hở, chủ quan nên sau khi thay hình đổi dạng con trâu, lại để cho nó chạy vuột về với chủ nó.Vị này chạy theo, đòi lại, nói là trâu của mình. Hai bên cự cãi. Quan chẳng biết ai đúng, ai sai, bèn bảo hai bên, ai biết con trâu của mình có đặc tính gì thì nói nhỏ với quan. Nếu con trâu làm đúng như vậy thì người đó thắng. Người chủ trâu liền đến nói với quan điều gì đó, còn vị "hảo hán" thì không có gì để nói, chỉ ấm ớ là con trâu của mình thuộc loại bình thường, không có đặc điểm gì. Vậy là quan bắt đầu khảo sát, cho anh chủ trâu nói trước về đặc điểm của con trâu mình. Anh nói:
- Thường ngày, tôi có dạy con trâu của tôi như người làm xiếc. Hễ tôi cầm sợi dây "vàm" giật một cái, miệng huýt sáo, là nó quì hai chân trước xuống cho tôi cởi lên lưng. Nếu tôi làm đúng như vậy thì con trâu này là trâu của tôi.
Mọi người đều khoái chí, hoan hô ầm ĩ. Anh ta bắt đầu và mọi việc đều đúng như anh ta đã nói.Vị "hảo hán" đứng sượng trân, muốn chui xuống đất mà đành phải theo quan về huyện. Anh kia khoái chí dẫn trâu về chỉ để làm thịt, chớ đâu còn làm gì được nữa, vì qua cơn thử thách với chuối nướng, với bàn chải sắt, nó đã hết "xí quách".
Lấy lại vẻ nghiêm chỉnh một chút, Ân phân trần:
- Tao kể vòng vo tam quốc để mày thông cảm với tao. Mặc dầu bà con đối xử với tao thật tốt, nhưng khi tao nghe chính các vị "hảo hán" nói chuyện với nhau về cái quá khứ không lấy gì làm lương thiện của mình, tao hơi ớn. Tao nghĩ dại là có hôm nào đó, một vị "cựu hảo hán" nhậu xỉn rồi vui tay đem tao ra làm mấy cái xoáy trên lưng, cắm cho tao hai cái sừng, hay kéo lỗ tai tao ra như tai của Trư Bát Giới trong truyện Tây Du Ký, thì ôi thôi dù có đem tao ra làm thịt cũng không ai thèm nhậu. Nhưng tao vẫn bình yên. Sự chăm sóc của bà con càng chu đáo hơn. Viên đạn của thằng giặc cũng không mấy thông minh nên chỉ chui qua phần thịt, không trúng gan mề gì cả, cũng không làm gãy xương sườn. Bà con gởi ra thành mua các loại thuốc nên tao cũng mau bình phục. Chẳng những vậy mà tao còn mập lù do được bồi dưỡng quá tiêu chuẩn. Tao nhớ đơn vị. Bà con đưa tao về. Hai Thành và Tư Thiện bây giờ coi tao như con, đã dùng xuồng chở tao đi tìm đơn vị, ba ngày sau mới gặp. Anh em ào ra mừng, coi như tao từ âm phủ bị Diêm Vương chê nhỏ, đuổi về.
Tôi còn đang suy nghĩ, chưa kịp có ý kiến gì, thì Ân đã có lời bình:
- Những chuyện về tình quân dân thì trong bộ đội ta có biết bao điều đáng nhớ. Nhưng ở đây, tao thấm thía về sức mạnh của cách mạng. Không có cách mạng thì không có bộ máy cai trị nào của bọn thực dân có thể cải tạo được những người như các vị "hảo hán" ở cái xứ Phú An này, đã giáo dục và chuyển hóa họ được. Họ theo cách mạng vì trong lòng yêu nước, có chí căm thù địch, chớ không phải như bọn người chỉ biết có Mỹ, có Tây
* * *
Câu chuyện của Ân đã để lại trong tôi nhiều suy nghĩ. Tôi thầm cám ơn cậu ta về những bài học tuy giản đơn mà rất đậm đà, sâu sắc về tình dân, những bài học đã có nhiều tác dụng đối với tôi trong những năm còn trong quân ngũ và cả khi đã trở lại đời thường.