13/11/2025 - 07:01

Khai thác, phát triển tài sản trí tuệ đối với đặc sản địa phương 

Vùng ĐBSCL có nhiều lợi thế, tiềm năng phát triển các sản phẩm đặc sản mang dấu ấn địa phương. Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc xây dựng và phát triển thương hiệu cho các đặc sản địa phương trở thành yêu cầu bức thiết. Bởi đây không chỉ là cách nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, mà còn là cầu nối đưa tinh hoa văn hóa vùng miền đến gần hơn với khách hàng trong và ngoài nước.

Gạo ST 25 được bày bán tại một cửa hàng trên địa bàn TP Cần Thơ.

Quan tâm phát triển nhãn hiệu

Theo TS Nguyễn Quốc Nghi, Trường Kinh tế, Đại học Cần Thơ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm đặc sản, đặc thù được xem là công cụ pháp lý, hỗ trợ tiếp thị quan trọng nhằm đảm bảo nguồn gốc xuất xứ, chống hàng giả và nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm đặc sản, đặc thù của vùng. Trong giai đoạn 2018-2023, vùng ĐBSCL có gần 9.870 đơn đăng ký sở hữu trí tuệ, hơn 5.800 văn bằng bảo hộ cho các sản phẩm địa phương. Một số sản phẩm chủ lực, đặc sản nổi bật được bảo hộ có thể kể đến như nước mắm Phú Quốc được bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại các quốc gia thành viên EU; gạo thơm Sóc Trăng ST là một điển hình thành công về xây dựng thương hiệu, đặc biệt ST25 đạt danh hiệu gạo ngon nhất thế giới. 

Ông Phạm Trường Giang, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP Cần Thơ, cho biết: Cần Thơ có nhiều sản phẩm đặc trưng gắn với điều kiện tự nhiên và văn hóa địa phương. Ngành Khoa học và Công nghệ luôn quan tâm và triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX), làng nghề đăng ký bảo hộ và quản lý tài sản trí tuệ như Chương trình phát triển tài sản trí tuệ TP Cần Thơ hỗ trợ các chủ thể OCOP đăng ký bảo hộ nhãn hiệu; hỗ trợ triển khai một số nhiệm vụ giúp các chủ thể phát triển sản phẩm gắn với xây dựng thương hiệu, xây dựng hệ thống quản lý sản phẩm gắn với đăng ký mã số vùng trồng, an toàn thực phẩm, chứng nhận chất lượng và xác thực, truy xuất nguồn gốc sản phẩm được bảo hộ. Thành phố hiện có 3 chỉ dẫn địa lý, 8 nhãn hiệu chứng nhận, 41 nhãn hiệu tập thể, một số sản phẩm điển hình như cá thát lát Hậu Giang, hành tím Vĩnh Châu, khóm Cầu Đúc Hậu Giang...

Ông Huỳnh Hùng Dũng, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Cà Mau, cho biết: Đến nay, tỉnh đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp 33 sản phẩm đặc sản đặc trưng, bao gồm 4 chỉ dẫn địa lý, 12 nhãn hiệu tập thể, 17 nhãn hiệu chứng nhận. Riêng đối với nhãn hiệu tập thể, ngoài việc thực hiện chương trình xây dựng, bảo hộ và quản lý, phát triển các sản phẩm đặc thù, đặc sản địa phương còn có 20 HTX được bảo hộ, nâng tổng số nhãn hiệu tập thể của tỉnh Cà Mau lên 32 nhãn hiệu. Ngoài ra, tỉnh đã hỗ trợ hơn 60 doanh nghiệp sử dụng nhãn hiệu đã được bảo hộ trên địa bàn thực hiện kiểm soát, đánh giá chất lượng sản phẩm, xây dựng tiêu chuẩn cơ sở; xây dựng mã số, mã vạch thiết kế nhãn hàng hóa; sản xuất video clip quảng bá hệ thống nhận diện thương hiệu.

Nâng sức cạnh tranh, tạo dựng niềm tin

Thực tế cho thấy tỷ lệ sản phẩm chủ lực, đặc sản vùng ĐBSCL được gắn nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận vẫn còn khiêm tốn; nhiều sản phẩm được phân phối chủ yếu ở dạng thô, thiếu nhận diện thương hiệu rõ nét. Không ít sản phẩm dù đã được cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu nhưng không được sử dụng đồng bộ trên bao bì, tem sản phẩm hay truyền thông. Ở khâu phân phối, tiêu thụ, liên kết giữa chủ thể sở hữu nhãn hiệu với doanh nghiệp, sàn thương mại điện tử và kênh phân phối còn lỏng lẻo, dẫn đến giá trị thương hiệu sản phẩm chủ lực, đặc sản chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế.

Nhiều ý kiến cho rằng, việc bảo hộ sản phẩm đặc sản địa phương không chỉ dừng lại ở việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển chuỗi giá trị liên kết sản xuất, tiêu thụ, quảng bá và kết nối du lịch. Ông Huỳnh Hùng Dũng nhấn mạnh: Phát huy vai trò chủ thể cộng đồng, trong đó HTX, doanh nghiệp và người sản xuất chính là lực lượng gìn giữ uy tín và chất lượng sản phẩm. Thực tế cho thấy, khi cộng đồng tích cực tham gia quản lý và khai thác nhãn hiệu thì giá trị và độ bền vững của tài sản trí tuệ được nâng lên rõ rệt. Ngoài ra, việc kết hợp giữa tri thức bản địa và ứng dụng khoa học công nghệ là hướng đi tất yếu. Những kinh nghiệm, bí quyết truyền thống cần được bảo tồn, đồng thời ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại trong quản lý, chế biến, kiểm soát chất lượng sẽ tạo nên bước đột phá giúp sản phẩm gìn giữ được bản sắc, đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường.

Theo TS Nguyễn Quốc Nghi, các tổ chức đại diện chủ sở hữu nhãn hiệu, tập thể nhãn hiệu chứng nhận bao gồm các HTX, hiệp hội và trung tâm khuyến nông đóng vai trò then chốt trong quản trị, bảo vệ và quảng bá thương hiệu. Trong bối cảnh chuyển đổi số, các đơn vị này cần chuẩn hóa quy trình quản lý thương hiệu trên nền tảng số từ đăng ký, giám sát, sử dụng đến xúc tiến thương mại. Việc triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng mã QR, blockchain hoặc cổng dữ liệu truy cập mở (open data) sẽ giúp nâng cao khả năng truy vết sản phẩm, tạo niềm tin cho người tiêu dùng. Các tổ chức quản lý thương hiệu cần phối hợp với cơ quan sở hữu trí tuệ địa phương để đánh giá định kỳ hiệu quả sử dụng nhãn hiệu, cập nhật dữ liệu trên nền tảng IPPlatform của Cục Sở hữu trí tuệ nhằm đảm bảo tính thống nhất và tránh xung đột pháp lý trong khai thác.

Có thể thấy, khi tài sản trí tuệ được bảo hộ và phát triển đúng hướng, mỗi sản phẩm đặc sản không chỉ mang lại giá trị kinh tế, mà còn là cách gìn giữ văn hóa và danh tiếng của vùng đất, con người nơi đó. Đây cũng là lời cam kết, minh chứng, tạo niềm tin cho người tiêu dùng, từ đó góp phần làm nên thương hiệu bền vững cho nông sản Việt ở thị trường trong và ngoài nước.

Bài, ảnh: MỸ THANH

 

Chia sẻ bài viết