30/10/2025 - 10:58

Phát huy mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu 

Theo đánh giá của cơ quan chức năng, thời gian qua, biến đổi khí hậu (BĐKH) đã ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, bảo tồn sinh thái ở ĐBSCL. Do đó, công tác ứng phó, hạn chế tác hại do BĐKH, xây dựng kế hoạch và hỗ trợ người dân sản xuất, tìm sinh kế thích nghi với BĐKH đang được các ngành chức năng, tổ chức quốc tế hỗ trợ thực hiện.

Còn nhiều thách thức

Theo Đại học Cần Thơ, ĐBSCL có diện tích trồng lúa đứng đầu cả nước, chiếm 52% diện tích gieo trồng. Thời gian qua, ngành Nông nghiệp các tỉnh, thành vùng ĐBSCL không ngừng cải thiện giống lúa, canh tác cho sản lượng cao từ 6-8 tấn/ha. ĐBSCL đã tập trung phát triển và mở rộng các quy trình canh tác lúa chất lượng cao, an toàn và hữu cơ như “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm”, giống “tập trung né rầy” và nhiều mô hình kỹ thuật tiến bộ khác. Các giải pháp để thích ứng và giảm phát thải khí nhà kính trong canh tác lúa được triển khai gần đây và đạt được kết quả tích cực…

Mô hình sản xuất lúa ứng dụng công nghệ cao, thích ứng BĐKH được triển khai thực hiện trên địa bàn TP Cần Thơ.

Ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết: Dự kiến năm 2025, sản xuất lúa tại vùng ĐBSCL hoàn thành kế hoạch đề ra. Đặc biệt, vụ đông xuân 2024-2025 ghi nhận diện tích và năng suất đều tăng, góp phần bù đắp sự sụt giảm nhẹ ở các vụ hè thu, thu đông và vụ mùa. Cơ cấu giống sản xuất cho các vụ mùa tiếp tục dịch chuyển theo hướng chất lượng cao và lúa thơm đặc sản. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa được đẩy mạnh, với khoảng 38.700ha chuyển sang cây hằng năm, cây lâu năm và mô hình lúa kết hợp thủy sản, thích ứng BĐKH. Qua đó góp phần nâng cao sản phẩm, chất lượng và đáp ứng thị trường xuất khẩu…

Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 5 năm gần đây tăng trưởng ổn định cả về sản lượng và giá trị. Cụ thể, năm 2020 sản lượng gạo Việt Nam xuất khẩu đạt 6,25 triệu tấn thu về 3,12 tỉ USD; đến năm 2024 xuất khẩu 9,03 triệu tấn mang về 5,6 tỉ USD và đây là giá trị cao nhất từ trước đến nay. Giá trung bình xuất khẩu năm 2024 đạt 627,19 USD/tấn, tăng 52,18 USD so với năm 2023. Lượng gạo xuất khẩu từ tháng 1-2025 đến ngày 15-8-2025 đạt 5,87 triệu tấn, trị giá trên 3 tỉ USD… Tuy nhiên, theo Viện Chiến lược và Chính sách nông ngiệp - môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL còn gặp nhiều thách thức từ bên ngoài. Các căng thẳng địa chính trị tiếp tục gia tăng, làm gia tăng rủi ro an ninh lương thực, năng lượng và logistics toàn cầu; cạnh tranh thương mại và thuế quan Hoa Kỳ cùng chính sách bảo hộ ngày càng khắt khe về cơ hội đa dạng hóa thị trường… Ngoài ra, BĐKH và dịch bệnh xuyên biên giới mới nổi thúc đẩy nhu cầu về công nghệ sinh học, quản trị rủi ro, bảo hiểm nông nghiệp; nhu cầu thị trường quốc tế ngày càng khắt khe về tiêu chuẩn xanh, trung hòa carbon, truy xuất nguồn gốc minh bạch; các cam kết quốc tế về Net Zero 2050 và các FTA thế hệ mới (EVFTA, CPTPP, RCEP) tiếp tục tạo cả áp lực và cơ hội; các mô hình nông nghiệp tiên tiến (carbon thấp, hữu cơ, tuần hoàn, sinh thái) và tiêu dùng xanh trở thành xu thế chủ đạo, đòi hỏi việc triển khai ứng dụng đồng bộ và nâng cao tri thức, kỹ năng cho người sản xuất…

Giải pháp thích ứng

TS Dương Văn Ni, Chuyên gia về đa dạng sinh học ở ĐBSCL, cho biết: Trước đây, ĐBSCL thể hiện rõ đặc điểm của 4 vùng hay còn gọi là 4 “miệt”, bao gồm: miệt vườn; miệt ruộng; miệt bưng và miệt biển. Do tác động của BĐKH kết hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội tại vùng ĐBSCL, những đặc điểm của từng vùng sinh thái không còn giữ được như trước đây, mà đã có nhiều thay đổi từ sản xuất đến sinh kế, sinh hoạt của từng vùng. Trước những thay đổi này, trong quy hoạch tích hợp ĐBSCL được công bố (Quyết định số 287/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050) về cơ bản cũng chia ĐBSCL thành 4 “miệt”, nhưng miệt bưng và ruộng được nhập lại thành một. Cho nên, ĐBSCL hiện còn 3 vùng sinh thái, gồm vùng nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Từ những thay đổi trên, việc xây dựng những mô hình sinh kế bền vững để góp phần giảm ứng phó BĐKH và sự thay đổi của các vùng sinh thái ở ĐBSCL là điều cần thiết.

Nhiều năm nay, người dân vùng ven biển của TP Cần Thơ (tỉnh Sóc Trăng cũ) biết được giá trị cỏ năn tượng tạo thêm thu nhập trong quá trình sinh kế cho hộ dân. Trong vô số loài cây cỏ hoang dại ở vùng đất ngập nước, cỏ năn tượng là nguồn vật liệu từ thiên nhiên phù hợp với mô hình sản xuất mới ở vùng nông thôn, cung cấp nguyên liệu cho đan đát, tăng thêm thu nhập. Đây còn là cây thích ứng với BĐKH, gìn giữ môi trường sinh thái bền vững. Nhiều nhà khoa học và nông dân cho biết ở những vùng cỏ năn tượng tự nhiên sinh sôi ngoài đồng thì chúng có khả năng làm sạch nguồn nước, tạo môi sinh tốt cho tôm, cua, cá… một cách phù hợp, tùy theo mô hình nuôi thủy sản của người dân, nhất là phù hợp mô hình nuôi quảng canh cho hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và thích ứng BĐKH...

Ông Nguyễn Anh Phong, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách nông nghiệp - môi trường, cho biết: "Mục tiêu phát triển của ngành Nông nghiệp và Môi trường đến năm 2030 với tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm thủy sản đạt 4%/năm (2025) và tăng thêm trong các năm tiếp theo. Tốc độ tăng năng suất lao động nông lâm thủy sản đạt bình quân từ 5,5-6%/năm. Giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 65 tỉ USD năm 2025 và hướng tới 100 tỉ USD vào năm 2030. Do đó, ngành Nông nghiệp chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy làm kinh tế nông nghiệp là cần thiết. Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị đã ban hành và hoàn thiện thể chế, tạo môi trường đầu tư - kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị sản xuất trong nước và hợp tác quốc tế, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp…”.

Thời gian qua, với sự hỗ trợ của tổ chức quốc tế, các địa phương vùng ĐBSCL đã triển khai nhiều dự án, mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững, thích ứng BĐKH. Mới đây, tại sự kiện giới thiệu và trình bày các quan hệ đối tác thích ứng với BĐKH, bà Sarah Hooper, Tổng Lãnh sự Úc tại TP Hồ Chí Minh, khẳng định: “Các mô hình hợp tác tăng trưởng bền vững và chia sẻ những hiểu biết về thị trường carbon đang phát triển của Việt Nam; chia sẻ và nhân rộng mô hình nuôi tôm rừng ngập mặn thích ứng BĐKH; mô hình tạo sinh kế bền vững thông qua cây trồng thích ứng khí hậu… là những hoạt động có vai trò quan trọng trong việc ứng phó với các thách thức BĐKH tại vùng ĐBSCL, cần phát huy thời gian tới. Từ năm 2016 đến nay, Chính phủ Úc đã đầu tư hơn 9,4 triệu AUD cho 16 dự án hợp tác trong khu vực tư nhân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển thị trường carbon bền vững và cải thiện sinh kế cho phụ nữ, người khuyết tật trên cả nước, đặc biệt là khu vực ĐBSCL. Chính phủ Úc sẽ có nhiều chương trình, kế hoạch hỗ trợ, phối hợp thực hiện các dự án, chương trình thích ứng BĐKH, phát triển nông nghiệp xanh, sinh kế bền vững ở Việt Nam, trong đó tập trung nhiều ở ĐBSCL thời gian sắp tới”.

Bài, ảnh: HÀ VĂN

Chia sẻ bài viết