Truyện ngắn: Lê Công Phượng
Tôi đến khu phố này mới được hơn tuần. Là họa sĩ tự do, chưa có gia đình, cũng không bị gò bó bởi bất cứ điều gì, nên nơi nào thích thì tôi ở lâu, không thích thì vài bữa. Nhà trọ của tôi ở gần một trường tiểu học. Lẽ ra tôi đã chuyển đi rồi nhưng từ một cái duyên tình cờ, tôi quyết định ở lại lâu hơn. Ít ra cho đến khi tôi hoàn thành xong bức tranh về ông. Hay nói đúng hơn là một bức tranh toàn cảnh trong đó ông là nhân vật trung tâm.
Buổi sáng đầu tiên đến đây, tôi dậy sớm, ngồi nhâm nhi tách cà phê trong một quán nhỏ gần trường. Quán thưa khách. Bà chủ quán có khuôn mặt phúc hậu. Tiếng nhạc nhẹ nhàng đủ để những người ngồi bên nhau vừa uống nước, vừa trò chuyện tỉ tê. Tất cả những điều đó khiến tôi dễ chịu chìm đắm vào suy nghĩ xem mình sẽ vẽ gì ở nơi đây.
- May nhờ có ông ấy chứ không bọn trẻ sang đường đến khổ.
Nghe tiếng bà chủ quán, tôi quay lại, nhẹ nghiêng đầu cười.
- Cậu không biết thôi, ngày nào ông ấy cũng có mặt ở đây dù nắng hay mưa để đưa bọn nhỏ sang đường đến trường.
Tôi nhìn theo hướng tay bà chỉ phía bên kia đường, đối diện cổng trường là một ông cụ có lẽ đã xấp xỉ bảy mươi, cùng với nhóm học sinh nhỏ tuổi đang đứng trên vỉa hè.
- Xe không đông nhưng họ cứ lao đi vun vút thế kia, bọn nhỏ sang đường cũng nguy hiểm lắm. Nhiều ông bà dắt con cháu đi học mà cứ hai bước tiến một bước lùi, chật vật dữ mới qua được bên này.
Bà chủ quán vẫn đứng cạnh tôi nhìn sang phía bên kia đường. Gần hai chục học sinh đứng ngoan ngoãn sau ông. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông cầm cuộn dây thừng, một đầu buộc vào thân cây trên vỉa hè, rồi đi xuống đường, cầm theo cuộn dây chăng ngang cao chừng 1 mét. Tôi đứng lên, nghĩ thầm: “Ông lão chơi kỳ, coi chừng bị người đi đường phản ứng”. Nhưng tôi càng ngạc nhiên hơn khi thấy người đi đường bắt đầu dừng xe cách sợi dây đủ khoảng an toàn. Không hề có tiếng la ó, không lời than phiền như tôi đoán. Sau khi buộc được đầu dây còn lại vào thân cây bên này, ông lộn lại bên kia đường dắt bọn nhỏ sang. Bọn nhỏ ngoan ngoãn xếp thành hàng, đi nhanh sang bên trường, ông lão đi sau cùng, vừa đi vừa thu gọn sợi dây, vừa gật đầu với những người đang dừng xe chờ. Tôi đoán là ông đang nói: “Cảm ơn!”, “Chúc buổi sáng tốt lành!” hay đại loại một câu gì thân thiện, chân thành lắm; bởi tôi không hề thấy sự bực dọc, khó chịu trên những khuôn mặt của bao nhiêu con người bị chặn dừng xe đó.
Lát sau ông ghé lại quán cà phê tôi đang ngồi cầm theo cuộn dây thừng “chặn đường” hồi nãy. Lúc này tôi mới nhận ra, bước chân ông không đều, bên chân phải có vẻ hơi nặng và cứng. Ông ngồi xuống ngay cạnh bàn tôi, chủ quán đã mang ra ấm trà từ lúc nào. Tôi đoán, ông là khách quen của quán. Những chủ quán thường nhớ rất rõ sở thích của từng khách quen. Hai người ngồi chuyện trò gì tôi không để ý nhưng khi ông đứng dậy ra về, để quên cuộn dây thừng trên mặt bàn, tôi vội gọi:
- Ông ơi! Ông bỏ quên đồ này!
- Cảm ơn cậu, ông để đó, trưa bọn nhỏ tan học lại dùng để đón chúng sang đường nữa.
Tôi ngại ngùng gãi đầu: “Vậy mà cháu cứ tưởng…”.
Tôi quen ông như vậy. Người ta gọi ông là ông Tấn thương binh. Cái chân phải mà tôi cảm thấy cứng cứng nặng nặng kia là chân giả, còn chân thật của ông? Có lần ông cười nói với tôi: “Nó lạc mất tôi trong trận đánh mở màn Chiến dịch Đường 9, Nam Lào rồi!”
- Trận đó ác liệt quá, khi tôi tỉnh dậy đã nằm trong trạm quân y, khắp người băng bó, chân phải không còn.
Ông nhấp ngụm trà nóng kể với tôi về những trận đánh, về thương vong, về những hy sinh, khó khăn của bộ đội ta và về cả tình cảm chân thành của những người dân đất bạn Lào. Rồi ông vỗ vào ngực trái mình nói lớn:
- Đây này, ở đây vẫn còn mảnh đạn nữa. Nó nằm đó bao nhiêu năm nay rồi, có gắp ra được đâu. Trái gió trở trời lại đau nhức. Vậy là tôi vẫn còn may mắn lắm. Còn được trở về quê hương, còn được nhìn thấy đất nước thay đổi từng ngày. Nhiều đồng đội ngã xuống còn chưa tìm được trở về…
Tôi không dám khơi gợi thêm những mất mát. Ông thường rất xúc động khi nhắc đến những người đồng đội đã hy sinh. Nỗi đau đó hằn trên khuôn mặt đầy những đốm đồi mồi, vết sẹo dài phía đuôi mắt ửng đỏ rồi tái dần. Ông nhắm nghiền mắt lại, cố giữ hơi thở bình tĩnh mất chừng một phút, đôi môi liên tục mấp máy, như cố thở đều.
Tiếng trống trường vang lên hồi dài báo giờ tan học. Ông Tấn uống nốt ngụm trà rồi vội đứng dậy. Ông cầm theo cuộn dây vừa bước ra ngoài, tâm trạng có vẻ tốt hơn, ông vui vẻ nói với tôi:
- Tôi đi đón bọn nhỏ đã, sáng mai lại kể chuyện cho cậu nghe. Chị Năm chủ quán dọn giúp tôi ấm trà nghen…
Bà Năm bước ra nhìn theo bóng ông vừa đi khuất, chép miệng:
- Con cháu người ta mà lúc nào ông ấy cũng xăm xắn như con cháu mình vậy.
Bọn nhỏ quý ông ấy lắm, đứa nào đứa nấy đều gọi là ông ngoại Tấn. Bao nhiêu năm nay, ông ấy làm công việc này mà lúc nào cũng coi như đó là trách nhiệm của mình. Đầu tiên người ta không hiểu, mắng ông ấy quá trời, nói là già rồi lẩn thẩn, dở hơi. Lâu dần thành quen cậu ạ. Đấy, giờ đi đến đoạn này, vừa thấy ông ấy giăng dây là mọi người đều tự dừng xe lại chờ. Kìa, kìa, cậu thấy chưa?
Bọn nhỏ ngoan ngoãn đi hàng hai sang đường. Ông đi sau, nhanh chóng thu dây lại. Đứng trên vỉa hè, ông còn dặn dò bọn nhỏ gì đó trước khi chia tay. Dòng xe vẫn đi lại như bình thường, không hề có một chút xáo trộn.
Bức tranh tôi vẽ về ông đã xong. Tôi dự định sáng nay sẽ tặng lại ông trước khi rời khu phố nhỏ này để đến một nơi khác. Trong bức tranh, ông đang dắt bọn nhỏ qua đường như mọi ngày. Mọi vật vừa được gột rửa bởi cơn mưa nên quang đãng, sáng sủa hẳn. Tôi không cố tình dùng toàn gam màu sáng cho bức tranh, nhưng đúng là, sau cơn mưa, mọi vật trở nên đầy sức sống.