Xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống nói chung, đời sống tâm linh nói riêng, một loại hình nhạc lễ hình thành nhằm đáp ứng yêu cầu sinh hoạt trong các nghi lễ Phật giáo. Đây là loại nhạc đi từ dòng nhạc cổ truyền của dân tộc, mang sắc thái dân tộc, được vận dụng một cách sáng tạo, phục vụ đắc lực cho sinh hoạt lễ nghi và các lễ hội Phật giáo. Nhạc lễ Phật giáo - một mảng văn hóa góp phần tạo nên sắc thái riêng, là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong nghi lễ Phật giáo Nam bộ.
Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Khê đã khẳng định, “Mạc dù đạo Phật thành lập từ Ấn Độ và mặc dù một số kinh chuyển từ Trung Quốc sang các nước Đông Á, nét nhạc trong các bài tụng, bài tán trong truyền thống Việt Nam không chịu ảnh hưởng Ấn Độ hay Trung Quốc. Trong nước Việt Nam, nét nhạc của các bài tán, bài tụng thay đổi tùy theo miền, theo vùng. Mà thang âm, điệu thức dùng trong những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu thức của những tiếng hát ru, những điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng”. Và theo Giáo sư Mạc Đường thì “Các loại hình lễ hội và lễ hội Phật giáo là loại hình văn hóa truyền thống mang nhiều dấu ấn lịch sử”.
|
Ban nhạc lễ trong hội thảo Sư Nguyệt Chiếu. Ảnh: VŨ CHÂU |
Nhạc lễ Phật giáo, một loại hình nghệ thuật độc đáo, kết hợp giữa nhạc lễ nghi thức với tài năng diễn xướng của các vị sư. Các nhạc công đạt được những khả năng tuyệt kỷ ở những ngón đàn, tay trống... sẽ góp phần to lớn cho sự thành công của buổi lễ, nhưng để thu hút những người mến mộ và tạo được ấn tượng khó phai cho mọi người, các vị kinh sư đóng vai trò cốt yếu. Cố nhiên, không phải ban nhạc lễ nào cũng làm được điều này, và sự thành công đó chỉ có thể được tạo nên từ sự khổ luyện của các nhà sư.
Nhạc lễ nói chung, nhạc lễ Phật giáo nói riêng trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Nam bộ, được lưu truyền hàng mấy trăm năm. Có những lúc khó khăn, tưởng chừng không đứng vững, nhưng rồi sức mạnh truyền thống ấy giúp nó đứng lên, tồn tại và phát triển đến hôm nay. Người có công lớn trong việc duy trì, chấn hưng nhạc lễ cổ truyền Nam bộ, trong đó có nhạc lễ Phật giáo, không thể không nói đến Sư Nguyệt Chiếu và người thừa kế là Thượng tọa Thích Thiện Thành ở Bạc Liêu.
Trong bài tham luận của mình tại Hội thảo khoa học “Sư Nguyệt Chiếu với sự nghiệp nhạc lễ cổ truyền Nam bộ” tổ chức tại Bạc Liêu tháng 9-2007 vừa qua, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong đã viết: “Truyền thống âm nhạc Phật giáo rất to lớn. Đó là do công lao đóng góp của các kinh sư bậc tổ. Các vị tổ này có tấm lòng cao cả vì sự nghiệp âm nhạc dân tộc mà sáng tạo, phát triển để giữ gìn bản sắc Việt. Một trong những vị tổ ấy hôm nay đáng trân trọng trên đường tìm hiểu, ghi nhớ công ơn, và chúng ta thành tâm đãnh lễ trong hội thảo này là ngài Nguyệt Chiếu”.
* * *
Là nhạc lễ Phật giáo, nhưng nhạc lễ kinh sư Nam bộ có những nét rất riêng. Bên cạnh tính chất truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc, nhạc lễ Phật giáo Nam bộ mang trong mình nó nhiều yếu tố tiếp biến và dung hợp các dòng văn hóa khác nhau thể hiện khá rõ nét. Ta có thể nhận ra trong nhạc lễ những yếu tố địa lý, dân cư của vùng đất mới, đặc điểm môi sinh xã hội khác với những vùng miền khác của đất nước.
Trong diễn trình lịch sử vùng đất Nam bộ, những yếu tố tự nhiên và xã hội đó đã mang lại sự dung hợp văn hóa, hình thành nên những nét văn hóa mới đa sắc diện, kết tinh từ yếu tố truyền thống của dân tộc và các vùng miền. Người dân Nam bộ đã thể hiện một sự sáng tạo lớn lao trong quá trình tiếp biến văn hóa từ những vùng miền khác nhau và ngay cả chính từ tiền nhân. Những điệu nhạc cung đình, ca ra bộ, hát bội, hò vè, hát ru, và cả Hồ Quảng của người Hoa... từ nhiều nơi hội tụ về đây, tất cả kết tinh lại, tạo nên một sắc thái mới phù hợp với hoàn cảnh và tâm tư của lưu dân Việt trong quá trình mở cõi.
Tiến sĩ Trần Diễm Thúy khi thông qua việc đánh giá vai trò của Sư Nguyệt Chiếu mà nêu bật đặc trưng của nhạc lễ Nam bộ, cho rằng “Sư Nguyệt Chiếu đã tạo nên những âm sắc mới phù hợp với hoàn cảnh mới, tâm tình của con người ở vùng đất mới (có thể kể cả yếu tố thiên nhiên, môi trường cảnh quan, hoàn cảnh cộng cư, sự phức hợp về văn hóa và cả điều kiện dung hợp về văn hóa nữa) mà nhạc lễ của Sư Nguyệt Chiếu đóng góp vào kho tàng nhạc lễ cổ truyền Nam bộ có những nét đặc thù: vừa bảo vệ được những yếu tố truyền thống, vừa phát huy tính ưu việt của dòng nhạc dân gian vào dòng nhạc lễ cổ điển, khiến nó vừa thoát khỏi sự gò bó, khô cứng vốn có của nhạc lễ cổ điển (tồn tại ở Bắc bộ), vừa chan hòa nhạc lễ cung đình Huế vốn là “gốc” ban đầu của nhạc lễ cổ truyền Nam bộ, tạo ra những âm sắc mới mang tính nghệ thuật cao, hài hòa và chứa chan tình người, thấm nhuần đạo hạnh”.
Đồng quan điểm trên, Tiến sĩ Trần Hồng Liên, từ việc phân tích quá trình hình thành nhạc lễ Phật giáo Nam bộ, đã nêu lên nhận định: “Từ hình thức ứng phú nặng ảnh hưởng của hát bội ở thế kỷ XVII - XVIII, đến hình thức tán, tụng mang âm hưởng cải lương, có chất Hồ Quảng trong diễn xướng của người Hoa. Chính những nét giao lưu văn hóa trong nhạc lễ Phật giáo đã chứng minh và mang lại dấu ấn đặc thù cho Nam bộ, trên nhiều lĩnh vực, trong đó bộc lộ đặc trưng quan trọng của văn hóa vùng, từ tính chất đa dân tộc và đa tôn giáo nơi vùng đất cuối cùng của Tổ quốc”.
Chúng tôi cho rằng, sức sáng tạo của người Nam bộ đã làm nên một kỳ tích, tạo ra những giá trị văn hóa phi vật thể mà con cháu muôn đời phải tri ân. Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) của Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa...”. Phải hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống để làm giàu cho cuộc sống hôm nay. Muốn làm tốt điều này, việc nghiên cứu nhạc lễ Phật giáo nói riêng, nhạc lễ cổ truyền Nam bộ nói chung phải được xem là nhiệm vụ quan trọng và cần kíp của Giáo hội Phật giáo, của các nhà khoa học và của cơ quan chức năng. Trước hết, Giáo hội Phật giáo cần tăng cường đào luyện kinh sư, nhạc công làm hạt nhân tập hợp các thành viên cho ban nhạc lễ. Việc làm này nếu chậm chân sẽ dẫn đến nguy cơ làm tắt dòng chảy bởi sự thất truyền do tác động của thời gian và những tác nhân văn hóa khác.
NGÔ TUẤN - TRẦN THUẬN