09/03/2025 - 08:38

Mái tóc và đồ đội đầu của cư dân Nam Bộ 

Thói quen, tập quán để tóc và sử dụng đồ đội đầu của người Việt nói chung và cư dân ở Nam Bộ nói riêng đã trải qua nhiều kiểu khác nhau và phản ánh những giai đoạn lịch sử, quan niệm của xã hội từng thời điểm.

Áo dài, đội khăn đóng là trang phục trang trọng của các bô lão trong những dịp lễ nghi, cúng kiếng. Ảnh: DUY KHÔI

Từ thời Ðông Sơn, tập tục đầu tiên với mái tóc của người Việt được ghi nhận là tóc ngắn. Lý do được cho là để tiện vào rừng. Việc cắt tóc ngắn được xem là chỉ dấu cho sự khác biệt rõ rệt nhất giữa người Việt phương Nam so với người Hoa Hán phương Bắc. Ðầu thế kỷ XV, khi nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà Minh, dưới chính sách đồng hóa của họ, dân ta bị cấm cắt tóc, phải mặc áo ngắn, để tóc dài. Từ thế kỷ XVI trở đi, kiểu tóc của người Việt, cả đàn ông lẫn phụ nữ, thường được ghi nhận nhiều nhất là để tóc dài xõa xuống vai. Kiểu xõa tóc này là một phép tắc xã giao để tỏ lòng tôn kính khi người dân đến diện kiến những người có vai vế trong xã hội.

Trong suốt mấy thế kỷ XVII, XVIII và XIX, mái tóc của người Việt, đặc biệt là của phụ nữ, ngày càng dài hơn, thường xuyên được miêu tả là dài chấm đất hay dài hết mức có thể. Sở dĩ người Việt có tập quán để tóc dài trong các thế kỷ này là do quan niệm thẩm mỹ và quan niệm Nho giáo. Người ta cho rằng để tóc dài là đẹp. Tóc càng dài càng được cho là đẹp(1). Mặt khác, trong nhiều thế kỷ ảnh hưởng Nho giáo, người Việt cho rằng: “Mình mẩy, da tóc là của cha mẹ trao cho, thì người con không dám làm tổn thương, hủy hoại. Bởi vậy, người mình mới có cái tâm lý kính trọng từng sợi tóc, không dám cạo cắt, để lâu thành dài người ta mới bới lên sau ót”(2).

Cách quấn khăn đội đầu của một bà lão ở xứ biển Gò Công, Tiền Giang. Ảnh: DUY KHÔI

Chính vì những quan niệm này mà người ta không dám cắt tóc ngắn. Cha xứ Rochon nói về mái tóc người Việt như sau: Họ chăm chút mái tóc mà họ gửi gắm vào đó những giá trị rất lớn, đặc biệt là phụ nữ, một số người có mái tóc dài chạm đất. Và tóc ngắn bị coi là không thể chấp nhận được, nhất là ở phụ nữ. John Barrow, một nhà ngoại giao Anh quốc viết: Tóc ngắn không chỉ bị xem như một dấu hiệu tầm thường mà còn là biểu hiện của sự suy đồi. Cho nên, việc cắt tóc nếu không phải là giới tăng ni, thì bị coi như một sự trừng phạt, một sự sỉ nhục(3).

Như vậy, từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, với quan niệm thẩm mỹ đương thời cộng với ảnh hưởng của Nho giáo, người Việt có tập quán để tóc dài. Trong giai đoạn này, tóc dài không chỉ được cho là đẹp mà tóc dài còn thể hiện tính luân lý ở mỗi người, nhất là các phụ nữ.

Ở Nam Bộ, mãi cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phần lớn thanh niên nam nữ vẫn còn để tóc dài và bới lên sau ót. Riêng phụ nữ thì “có kiểu búi tóc cao lên giữa đỉnh đầu, cho đùm tóc ở phía sau có hình như cái cổ gà rồi giắt kẻ vàng. Hoặc tóc được chải lật ra sau, búi cao, cuốn thành ba vòng phía sau đầu rồi cài lược bánh lái bằng bạc hoặc vàng. Các thiếu nữ cũng chải tóc lật ra sau rồi cặp hay bới lỏng thả dưới gáy. Phụ nữ ở nông thôn có tập quán bôi dầu dừa lên tóc cho láng mướt. Trong khi đó, nam giới bới tóc xong còn bao khăn, giắt trâm lên đầu. Chiếc lược giắt cho đến những năm đầu thế kỷ XX còn là vật trang sức phổ biến của nam giới, ngay cả Âu phục bắt đầu thịnh hành”(4).

Trong giai đoạn này, “ngoài kiểu tóc của người lớn, trẻ em ở ÐBSCL cho đến đầu thế kỷ XX còn để tóc nhiều dạng: khoảng 3, 4 tuổi, bé trai được cạo tóc, chỉ chừa ở giữa đỉnh đầu một chỏm tóc tròn như cái bánh bèo nên gọi là tóc chừa bánh bèo (miền Bắc gọi là tóc để chỏm). Nếu tóc được chừa ở giữa đỉnh và hai bên góc đầu hai chỏm là tóc ba vá. Còn bé gái thường được chừa ít tóc trên thóp hoặc cạo hết, chỉ để một mớ nhỏ sau gáy dài ra gọi là cun cút. Trong trường hợp tóc được chừa hai chỏm hai bên góc đầu thì gọi là tóc trái đào… Chỉ khi các em trai lẫn gái bước vào tuổi 15 mới thôi không cạo tóc nữa mà nuôi dài để bới sau gáy”(5).

Ðầu thế kỷ XX, trước làn sóng Âu hóa; nhất là do ảnh hưởng phong trào Duy Tân, người ta mới bắt đầu cắt tóc ngắn. Phong trào cắt tóc ngắn khởi đầu từ miền Bắc rồi đến miền Trung sau đó lan ra cả nước. “Từ năm 1918, mái tóc của nam nữ thanh niên Nam Bộ có nhiều thay đổi. Nào đàn ông hớt tóc chải bảy ba; rồi tân thời hơn với chải ổ gà (tức chải xong, lấy tay nhấn tóc bên mặt từ phía đằng sau tới cho phía đằng trước nổi phùng lên); sau 1945, có người uốn dợn, lớp uốn quăn, lớp sấy ép, lớp để tóc dài hip-pi (khoảng 1963-1975). Về phía phái yếu thì bới tóc bánh lái (nghĩa là bới cao, chừa đuôi diều, đuôi tóc thả ba vòng), rồi uốn quăn (ban đầu đa số chỉ uốn dợn phía trước, lần lần uốn quăn cả đầu)”(6). Sau đó là các kiểu tóc thề, tóc tém, cũng như các kiểu tóc ảnh hưởng của phương Tây…

***

Bà lão miệt vườn Phong Ðiền đội nón lá, cổ choàng khăn hái trầu. Ảnh: DUY KHÔI

Vật đội trên đầu phổ biến của người Việt ở Nam Bộ là chiếc nón lá, được cả nam lẫn nữ sử dụng. “Vì chức năng của nó phần lớn nhằm che nắng cho người lao động vất vả… nên nón phải chắc bền và tương đối cứng cáp chứ không nhẹ nhàng, mỏng manh như nón lá bài thơ ở Huế. Sườn nón gồm những nan tre xếp thẳng dọc và khoảng 16 vòng nan tre xếp tròn có đường kính từ nhỏ xíu trên đỉnh nón đến lớn dần theo vành nón. Người ta chằm lá buông già, phơi kỹ, màu trắng ngà lên khung nan và khâu chỉ cước một cách tỉ mỉ, đều đặn. Cư dân ÐBSCL thường mua nón lá được sản xuất ở vùng Trảng Bàng (Tây Ninh) và Long Khánh (Ðồng Nai)…”(7). Từ năm 1884, nam giới bắt đầu chuyển sang đội các loại nón của phương Tây(8).

Ngoài nón lá thì khăn cũng là vật đội đầu phổ biến trong các dịp lễ mang tính nghi thức, trang nghiêm của người dân Nam Bộ. “Khăn đóng là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong bộ lễ phục Việt thời đó và nó biểu hiện tư cách trong giao tiếp xã hội. Ở Gia Ðịnh, khăn này trải qua ba thời kỳ: đầu tiên là khăn xếp gồm vuông nhiễu hoặc lụa dài, khi đội được quấn thành năm lớp vòng tròn gợn sóng quanh đầu, vì thế thành phần người đội nó (chủ yếu là nhà Nho) được dân gian gọi là dân năm lớp. Kế đó là loại khăn đóng với cách thức xếp như trên nhưng được làm sẵn như cái mũ, khi dùng chỉ cần đội lên đầu. Sau cùng đến khăn chụp cũng làm sẵn như trên nhưng gọn gàng hơn mà người bình dân gọi là khứa cá kho”(9).

Trước đây, khăn đóng được những người lớn tuổi dùng trong những dịp đi xa hay dự các lễ long trọng như cúng đình, đám cưới, tang ma… Giới trẻ chỉ dùng khăn đóng trong dịp cưới hỏi, ít khi dùng trong các dịp khác. Ngày nay, khăn đóng hầu như chỉ còn được sử dụng trong các dịp cúng đình bởi Ban tế tự đình làng. 

Trần Phỏng Diều

-----------------------

(1) Bùi Quang Thắng (2018), “Nét cũ duyên xưa”, NXB Lao Ðộng, tr.19-24.

(2) Dẫn theo Phạm Công Luận (2019), “Tùy bút - Hồi ký - Giai thoại trên báo xuân Sài Gòn xưa”, NXB Văn hóa - văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, tr.109-110.

(3) Bùi Quang Thắng, Sđd, tr.24.

(4) Phan Thị Yến Tuyết (1993), “Nhà ở - trang phục - ăn uống của các dân tộc vùng Ðồng bằng sông Cửu Long”, NXB KHXH, tr.57-58.

(5) Phan Thị Yến Tuyết, Sđd, tr.58-59.

(6) Vương Ðằng (2014), “Phong tục miền Nam”, NXB Văn hóa Thông tin, tr.350-351.

(7) Phan Thị Yến Tuyết, Sđd, tr.63.

(8) Vương Ðằng, Sđd, tr.351.

(9) Phan Thị Yến Tuyết, Sđd, tr.56.

 

Chia sẻ bài viết