Truyện ngắn: Phong Linh
Lão ngồi chễm chệ trên chiếc ghế gỗ, kẽo cà kẽo kẹt. Không gian xung quanh im lặng đến nôn nao. Khuôn mặt lão khi ấy y hệt người đang chờ chết một cách tự nhiên như hít thở. Khuôn mặt có vẻ chua chát, khắc khoải nhưng lại lạnh nhạt, xa xôi. Ai lần đầu thấy cảnh ấy hẳn nhiên sẽ nghĩ rằng lão sẽ chết ngay thôi. Thế mà, ngày nào lão cũng ngồi im như vậy, mặc người qua người lại, mặc người rêu rao, lão chẳng bao giờ lên tiếng và lão cũng mãi chẳng chết.
Lão là một người ki cóp. Lão ki cóp từng miếng nhỏ nhặt của đời. Lão ki cóp cả nỗi buồn, niềm vui, hoan hỉ hay sân si. Lão có con cái gì không? Sao cứ thấy lão lủi thủi một mình?
Có nhiều người thắc mắc như thế khi lão mới chuyển về đây. Nhưng không một lời nào đáp lại. Người làng Sình cũng quên những câu hỏi về lão. Có vài thỉnh thoảng qua lại nhà lão mỗi buổi chiều. Cứ lúc ấy lão lại ngân nga lên vài câu hát ý ơ, khi thì hồng hồng, tuyết tuyết, lúc lại ai oán với khúc tỳ bà hành, tống biệt. Lão vừa hát vừa ngâm. Những lúc ấy khuôn mặt lão ửng hồng, mái tóc bạc chỉ còn lơ thơ khẽ rung rung trước gió.
Rồi lão chết, rụng rơi cả những hanh hao nắng ngày cuối đông. Căn nhà không ai đến từ đó.
***
Rồi trong một buổi chiều huyên náo gió đông, khi mưa bụi xuân sớm đang chớm về e ấp, có một người con gái đẹp đến mua lại căn nhà. Người con gái ấy có khuôn mặt tròn như trăng, đôi mắt đen long lanh rực rỡ, chỉ có khuôn miệng hé cười đầy vẻ u sầu. Nhìn dáng điệu của nàng, dân làng Sình dấy lên nỗi hoài nghi. Căn nhà này chẳng ai dám bén mảng đến, vì những tiếng đàn sầu não ai oán như kiếm tìm những thất lạc đầy xưa cũ.
Nương không tin vào lời đồn đại về một hồn ma còn lẩn khuất quanh đây. Nàng về đây cốt để nghỉ ngơi sau một cuộc giải phẫu vòm họng, bác sĩ yêu cầu nàng không được hát trong một thời gian dài. Những người trong câu lạc bộ đều tiếc cho nàng bởi một giọng thanh ca kiều diễm giờ chỉ còn là dĩ vãng. Nàng tưởng như mình chết rồi. Không hát thì nàng vô hình giữa đời sống. Nàng tìm cách trốn đi, và rồi nàng đến đây.
Buổi tối nàng ngủ trên chiếc ghế dài ngày xưa lão vẫn thức suốt đêm. Trong giấc ngủ say nàng như bị dẫn đến một cõi đầy mê hoặc bởi những tiếng đàn thâm tình sâu sắc. Nàng nhìn thấy một thanh niên ôm đàn đáy, ngồi bên một ca nương tóc vấn cao, mặt tròn, giống nàng đến lạ lùng. Nhưng nàng tự nhủ cái không khí đài các, quý phái này chắc chắn khác xa với thời nàng sống. Nàng cứ đứng như thế ngắm nhìn họ hát khúc Tỳ Bà Hành. Giọng ca nương cao vút như bay đến tận cùng của bầu trời. Thỉnh thoảng đôi mắt thanh tú sâu thẳm ấy lại quay sang nhìn người kép rồi mỉm cười bằng khuôn miệng u sầu quyến rũ.
Nàng tỉnh dậy, mệt nhoài như chính mình vừa hát xong khúc nhạc Tỳ Bà Hành ai oán ấy. Nàng nhớ lại từng giây phút vừa xảy ra lúc trước, rồi ngơ ngẩn ngồi nhẩm bài hát đến tận sáng hôm sau.
Cứ như thế, suốt những đêm sau, tiếng đàn và giọng hát càng bi thiết hơn. Nàng không nhìn thấy nụ cười nào trên mặt ca nương và chàng kép ấy nữa. Chỉ còn tiếng đàn luyến chặt với giọng hát. Không ai có ý định dừng lại, cả người hát, người đàn, và người nghe. Nàng không còn biết thời gian đã trôi đi bao lâu, mãi đến khi nhìn thấy những giọt máu nhỏ từ cây đàn xuống sàn, rồi giọng hát cũng bắt đầu lạc đi và biến mất. Không gian chìm vào bóng đêm lặng câm. Khi nàng tỉnh dậy, chỉ còn thấy người kép ngồi ôm cây đàn, ánh mắt nhìn vào thăm thẳm đêm tối. Ca nương kia đã biến mất không một dấu vết.
 |
|
|
Sau đêm hôm ấy, nàng ốm li bì. Một vài hàng xóm vì lòng tốt, đến thăm nàng. Người ta nói, mấy đêm nay, những người đi qua nghe thấy tiếng nàng hát cả đêm. Giọng nàng vừa ở ngay đây vừa xa xôi như tận một cõi khác. Dân làng bảo có khi nàng bị ma nhập. Người ta kể cho nàng nghe về người đàn ông một mình ôm cây đàn hát khúc Tỳ Bà Hành chết cách đây mấy năm, trước khi nàng đến. Nhiều người khuyên nàng nên dời đi. Nhưng nàng cứ nằm lì đó, toàn thân nặng trịch và đầu cứ văng vẳng tiếng hát cao trong, trầm đục của người ca nương. Nàng ngờ rằng có ai đó đang cố mách bảo điều gì.
Nàng lùng sục khắp căn nhà, và tìm được cây đàn đáy mà kép đàn trẻ tuổi trong giấc mơ đã gảy đến bật máu. Vệt máu đỏ giờ đã chuyển thành đen kịt, nhưng vẫn còn đây, quyện chặt vào dây đàn. Người đàn ông sống trong căn nhà này đã chết trước khi kịp nhắn nhủ ai đó chôn cất cây đàn cho mình, hay chính ông ta muốn giữ lại, để một người khác tìm thấy.
Người ta chỉ cho nàng ngôi mộ của lão. Một ngôi mộ nhỏ bé, lấp đằng sau những bụi cỏ gai mọc cao bằng đầu người. Nàng ôm cây đàn đến trước mộ lão và ngồi rất lâu ở đó. Rồi nàng ôm cây đàn đi, tìm đến người thầy đã từng dạy nàng ca, mong ông sẽ biết chút manh mối nào đó.
Mấy năm nay, biền biệt với những đợt lưu diễn, nàng mới quay trở lại tìm người thầy đã dạy mình những nhịp phách cung đàn đầu tiên. Ngôi nhà ngói bé nhỏ có khu vườn lan chuông vẫn tỏa hương thơm ngát. Thầy đón nàng bằng nụ cười trầm ngâm của người đã hết thói quen trông ngóng những điều bất ngờ.
Thầy nhìn dáng ca nương mảnh khảnh đang cúi gập mình xuống của nàng. Dù đã lâu lắm nàng ít qua lại, nhưng thầy vẫn không thể nào quên đứa trẻ yếu ớt, thường hay khóc một mình mỗi khi nghe các đào nương khác hát, nhưng giọng lại vô cùng thanh, chắc, ai oán, “sầu tan bóng mây” khiến người nghe phải thoáng rùng mình.
Nàng khẽ khàng mở bọc đang ôm trên tay ra, để lộ cây đàn lấy được ở nhà lão. Nàng chưa kịp bắt đầu câu chuyện thì khuôn mặt thầy đã lộ vẻ đau đớn, phiền não mà dường như trong suốt thời gian theo học thầy, nàng chưa từng chứng kiến.
“Con lấy cây đàn đáy này ở đâu?”. Giọng thầy lạc đi, run lên.
“Ở ngôi nhà mà con đã mua. Cây đàn của ông lão chủ nhà trước, đã mất.”
Thầy quỳ sụp xuống trước cây đàn, khóc như một đứa trẻ. Phải mất nhiều phút sau, thầy mới bình tĩnh, rồi kể cho nàng nghe về cây đàn đáy, về câu chuyện tình buồn của người kép chơi đàn và nàng ca nương tên Hoài Dương cách đây hơn nửa thế kỷ. Lúc bấy giờ, họ nổi danh là một cặp tài hoa, kẻ đàn người hát quyện chặt với nhau. Khúc Tỳ Bà Hành là khúc ca mà Hoài Dương mê đắm nhất, nên nàng hát mải miết bằng tất cả tâm tư sầu muộn của mình. Nhưng rồi đến một ngày, những người hát ca trù bị bắt bớ, cấm đoán. Hai người ấy đã cùng nhau chơi thâu đêm cho trọn khúc Tỳ Bà Hành. Người đàn đã gảy đến khi tay bật máu, còn ca nương không thể nói thêm tiếng nào.
Ca nương Hoài Dương chết sau đêm ấy, còn thầy kép tên Quỳnh đã bị bắt đi lính. Cây đàn được người quen cất giữ cho đến tận lúc thầy trở về.
“Thầy chính là học trò của ông ấy. Suốt mấy năm nay thầy tìm kiếm ông ấy. Có lẽ ông ấy muốn một lần nữa nghe khúc Tỳ Bà Hành, linh hồn mới được siêu thoát. Thầy thấy con có duyên với hai người này và thầy nữa, cũng tự cho mình đã có chút duyên ấy. Con đồng ý giúp chứ”.
“Nhưng giọng của con bây giờ...”. Nghĩ đến việc không thể hát, nàng không nói nên lời.
- “Thầy biết rằng con có thể hát”.
Buổi chiều những ngày xuân đang tàn, mưa bụi vẫn giăng mắc lạnh lẽo, giữa sân nhà phủ đầy rêu xanh ấy, giọng hát của nàng vang lên, tình tứ, say mê, khắc khoải. Người ta đi qua đi lại, không ai thầm thì, không ai ngó nghiêng, chỉ lặng im, nghe từng câu hát như từ ngàn xưa vọng về.
“Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty”
Tiếng đàn, tiếng hát, tiếng nhịp, tiếng phách bay giữa bóng đêm đang đổ. Không ai dời bước, không ai dời hát, cứ như thế mà dẫn dụ nỗi say đắm triền miên của lòng người.
Nàng biết rằng, bắt đầu ở đây, nàng có thể hát mãi, hát mãi cho tròn chữ Duyên, chữ Tình đang được nhen nhóm.