* Điều tra: VĂN MỸ PHƯƠNG
Kỳ 2: Vì sao lao động có nghề nhưng chưa có việc làm?
Bên cạnh những thành quả đạt được, 5 năm qua, công tác ĐTN cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định. Đó là, việc điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề, định hướng, tư vấn giới thiệu việc làm chưa thật sự được chú trọng, thiếu sự tham gia của các đơn vị chức năng quản lý chuyên ngành cấp quận, huyện nên một số địa phương đăng ký nhu cầu học nghề hằng năm thiếu chính xác, chưa xác định nghề phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội địa phương nên chưa định hướng việc làm sau học nghề cho người lao động. Qua đó, tỷ lệ giải quyết việc làm sau đào tạo một số lớp nghề đạt thấp.
* Lộ diện bất cập...
Chúng tôi đến tìm hiểu mô hình trồng nấm bào ngư được gầy dựng từ 3 năm trước ở xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền. Khác hẳn với không khí rộn ràng từ khoảng tháng 8-2015 trở về trước, nay hầu hết các hộ tham gia mô hình đã "quên" loại nông sản này. Sau vườn, trại nấm nhà ông Trần Thới Hòa, ở ấp Mỹ Nhơn, xã Mỹ Khánh được tận dụng làm nhà kho, một ngàn bịch phôi nấm đã qua sử dụng giờ thành phân bón cho cây ăn trái trong vườn. Ông Nguyễn Văn Sáu, ở ấp Mỹ Thuận, cho biết, đã dừng hẳn nghề trồng nấm bào ngư từ tháng 9-2015. Nhờ phôi giống được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) hỗ trợ miễn phí và tận dụng cây tre lá tại nhà để dựng trại trồng nấm, nếu không, gia đình ông đã thua lỗ. Đó là chưa kể, Sở NN&PTNT hỗ trợ đến 2 đợt phôi trồng thực nghiệm, trong đó đợt đầu gần như hỏng do phôi không đạt chất lượng. Ông Sáu chia sẻ: "Với sự hỗ trợ phôi giống của Sở NN&PTNT cùng kiến thức được trang bị từ lớp nghề trồng nấm theo Đề án ĐTN tổ chức cuối năm 2013, tôi đạt hiệu quả đợt nấm vừa qua. Tuy nhiên, với giá bán dao động từ 15.000 đồng - 30.000 đồng/kg nấm, thêm tỷ lệ hao hụt phôi khoảng 20%, chắc chắn tôi sẽ lỗ nếu bỏ tiền mua phôi giống. Vì vậy, tôi và một số anh em không duy trì được nghề". Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Út Em, Phó Trưởng phòng NN&PTNT huyện Phong Điền, cho biết, mô hình trồng nấm bào ngư tại xã Mỹ Khánh không đạt hiệu quả và chuyện các nông hộ không mặn mà với nghề này là có thật. 2 lý do chính là đơn vị cung cấp phôi không đồng loạt và chất lượng phôi nấm không đồng đều, dẫn đến sản lượng nấm không đạt yêu cầu và trọng lượng nấm thu hoạch mỗi ngày không nhiều nên khó bán. Nếu gầy dựng lại mô hình cần tổng hợp ý kiến người dân và có hợp đồng ký kết với doanh nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng phôi nấm và đầu ra sản phẩm.

Huyện Cờ Đỏ đang nhân rộng mô hình tổ đan lục bình tại thị trấn Cờ Đỏ, giúp nhiều phụ nữ có việc làm, thêm thu nhập. Ảnh: P.MAI
Tháng 8-2014, UBND phường Lê Bình ban hành quyết định thành lập Tổ liên kết phụ nữ may gia công với 40 thành viên; sau đó, tổ chức ra mắt có sự tham dự của đại diện ngành, đoàn thể chức năng, hứa hẹn Tổ hoạt động hiệu quả, giúp nhiều phụ nữ nghèo có việc làm, cải thiện thu nhập. Theo Hội Phụ nữ quận Cái Răng, Tổ ưu tiên các chị tham gia học nghề Đề án ĐTN và sử dụng mặt bằng nhà chị Quảng Thị Diễm Trang (ở khu vực Thạnh Mỹ) để sản xuất hoặc nhận hàng về nhà gia công. Ngoài thợ may nhận hàng về gia công, tại nhà chị Trang thường có khoảng 6 -7 thợ may. Thế nhưng, từ khoảng tháng 11-2015, thợ may không còn tập trung như trước. Hiện chị Trang xếp gọn 4 máy may và 1 máy vắt sổ vào góc nhà, vì chỉ còn chị và cháu ruột nhận hàng may. Chị Trang cho biết, chị chỉ nhận gia công và sửa chữa một ít quần áo, kiếm thêm thu nhập. Chị Trang gắn bó nhiều năm với nghề may và mở cơ sở may gia công tại nhà hơn 3 năm trước khi thành lập tổ liên kết, thu hút các thợ may lành nghề tại địa phương nhận gia công sản phẩm tại nhà. Đến khi thành lập tổ liên kết, chị nhận thêm nhiều thành viên mới, trong đó có 3 chị học lớp nghề đề án ĐTN. Chị không ngại rèn luyện tay nghề cho các thành viên này để các chị đủ khả năng gia công các dòng sản phẩm may mặc cao cấp, xuất khẩu. Tuy nhiên, có 1 người chịu khó "đeo" nghề, còn 2 người theo gần 2 tháng thì nghỉ hẳn. Bà Nguyễn Thị Cẩm Tú, Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ quận Cái Răng, chia sẻ: "Do sản phẩm mẫu cần yêu cầu kỹ thuật cao và trả công theo số lượng, trong khi tay nghề của các chị em học nghề từ đề án ĐTN còn hạn chế, may rất lâu mới hoàn thành 1 sản phẩm, dẫn đến thu nhập thấp nên các chị chán nản, bỏ nghề. Hiện nay, một số chị chuyển sang nhận gia công các sản phẩm đơn giản, may nhanh để có thu nhập cao hơn". Còn bà Bùi Thị Bích Phượng, Phó Chủ tịch UBND phường Lê Bình, cho biết, sẽ cùng Hội Phụ nữ phường khảo sát lại tổ liên kết may gia công, tìm hướng tháo gỡ khó khăn để duy trì, phát triển mô hình, tạo thêm việc làm cho lao động trên địa bàn phường.
Việc quy hoạch dạy nghề theo điều kiện từng địa phương cần được quan tâm nhiều hơn. Trước đây, một số nghề từng lâm cảnh đào tạo tràn lan, thiếu tính toán điều kiện khả thi đầu ra sản phẩm. Có thời điểm, một số Hội Phụ nữ các phường, xã tập trung đăng ký mở lớp nghề kết cườm cho phụ nữ. Sau khi học nghề, chị em có thể làm và tự tiêu thụ một số vật dụng như: móc khóa, bóp cầm tay, bình hoa, giỏ xách..., Tuy nhiên, do vốn mua nguyên liệu khá nhiều, đầu ra sản phẩm không ổn định, không có nơi trưng bày, giới thiệu sản phẩm... nên chị em dần chán nản, không theo nghề nữa. Vài năm trước, Hội Phụ nữ phường Trường Lạc, quận Ô Môn phối hợp mở một số lớp nghề kết cườm theo nhu cầu của chị em. Bên cạnh việc khuyến khích chị em tự mua nguyên liệu để làm sản phẩm, tìm nguồn tiêu thụ, Hội liên hệ với đơn vị chức năng các cấp để được giới thiệu nơi tiêu thụ hay trưng bày, quảng bá sản phẩm cườm. Lúc đầu, khi sản phẩm thịnh hành, chị em làm và bán hàng khá liên tục nhưng thời gian sau thì chững lại, khó tiêu thụ, ảnh hưởng vốn liếng đầu tư và thu nhập nên chị em khó "đeo" nghề. Phường Trà An, quận Bình Thủy có hẳn tổ kết cườm và được Hội Phụ nữ đầu tư tủ trưng bày sản phẩm tại UBND phường, nhưng thực tế lượng sản phẩm kết cườm bán ra rất ít, thu nhập không đáng kể. Khoảng 5 năm trước, bà Phạm Kim Giếng, khu vực Bình Dương B, phường Long Tuyền, quận Bình Thủy, tham gia lớp nghề kết cườm. Đến nay, một số sản phẩm bà làm ra còn trưng trong tủ vì không có ai mua. Bà Giếng chia sẻ: "Theo tôi, sau khi học nghề, học viên cần được đảm bảo đầu ra sản phẩm với giá cả phù hợp. Tổ chức ít lớp cũng được nhưng phải đạt hiệu quả việc làm, có như vậy mới không lãng phí nguồn vốn đầu tư của nhà nước".
Sửa chữa xe gắn máy là nghề khá "hot" trong danh mục Đề án ĐTN, được nhiều địa phương đăng ký mở lớp sau khi khảo sát nhu cầu lao động. Theo Ban giám đốc Trung tâm Dạy nghề (TTDN) Tây Đô, kết thúc khóa ĐTN ngắn hạn 3 tháng, học viên mới nắm được kỹ thuật sửa chữa các hư hỏng đơn giản, thông thường. Muốn mở cửa tiệm hay xin vào các cửa hàng đại lý Yamaha, học viên cần đầu tư vốn, học thêm khóa kỹ thuật nâng cao 4,5 tháng tại trung tâm, mới có thể vững tay nghề để trở thành kỹ thuật viên. Còn bà Nguyễn Thị Đậm, Chủ nhiệm HTX Phú Thọ, chia sẻ: "Để nguồn sản phẩm đảm bảo liên tục, kịp tiến độ đơn hàng, HTX cần nhân công dồi dào, chịu khó, gắn bó lâu dài với công việc. Thời gian qua, HTX tham gia dạy một số lớp nghề may để thu nhận học viên. Tuy nhiên, do việc điều tra, khảo sát nhu cầu chưa sát hợp nên học nghề xong, ngoài số học viên làm công nhân cho các công ty may, có ít học viên chịu may gia công cho HTX. Theo tôi, khâu khảo sát học nghề cần chính xác, hạn chế tình trạng chọn đối tượng không có nhu cầu".
* Vướng "đầu ra", mắc "đầu vào"
Công tác dạy nghề gắn với giải quyết việc làm theo Đề án ĐTN không chỉ vướng "đầu ra" mà còn khúc mắc ở "đầu vào". Nhiều địa phương gặp khó khi vận động học viên tham gia lớp nghề vì nhiều lao động đăng ký từ lâu đã tìm việc làm khác để kiếm sống, một số lớp nghề phải tìm kiếm "thu gom" đủ học viên. Do đó, dẫn đến tình trạng một số lao động có điều kiện sống tốt vẫn "được" tham gia học nghề miễn phí. Dịp tình cờ đến thăm lớp nghề cắt, uốn tóc ở phường Thới An, quận Ô Môn, tổ chức vào tháng 9-2015, chúng tôi khá ngỡ ngàng khi biết chị Hồ T.U. từng học nghề bài bản ở cửa tiệm có tiếng ở quận Ninh Kiều trước khi tham gia lớp nghề này. Lớp nghề trang điểm tổ chức ở phường Trà An, quận Bình Thủy năm 2015, có chị Lê T.H., chủ cơ sở kinh doanh nhà nghỉ, thu nhập rất ổn định. Chị Hoàng Như Phượng Hồng, từ sau khi kết thúc lớp nghề trang điểm, đến nay không có việc làm. Chị cho biết: "Lớp nghề chỉ trang bị kiến thức cơ bản, học viên chưa đủ khả năng mở tiệm và cạnh tranh với các thợ được đào tạo bài bản từ những trung tâm làm đẹp lâu năm". Chị Hồng đang làm nhân viên cửa hàng bách hóa gần nhà, mong muốn tích lũy số vốn để học nghề trang điểm nâng cao.
Bên cạnh đó, Ban chỉ đạo Đề án ĐTN một số địa phương chưa thật sự năng động, chậm kiện toàn khi có biến động cán bộ. Sự phối hợp các phòng, ban chưa chặt chẽ, thiếu liên kết, hầu hết giao cho các TTDN. Ban chỉ đạo cấp xã hoạt động kém hiệu quả nên không đánh giá hiệu quả sau học nghề của lao động trên địa bàn. Sự phối hợp giữa cơ sở dạy nghề với các doanh nghiệp, UBND các quận, huyện, cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ. Các cơ sở dạy nghề chưa tạo uy tín và thương hiệu để thu hút học sinh học nghề. Ông Nguyễn Thành Quý, Trưởng phòng đào tạo TTDN Nhã Thành, cho biết: "Bên cạnh các học viên tìm được việc làm ổn định tại các đơn vị, cơ sở liên kết đào tạo của trung tâm, còn bộ phận lao động sau học nghề khó có việc làm, do khó tiếp xúc nguồn vốn hỗ trợ từ ngành chức năng để tự kinh doanh, sản xuất; một bộ phận lao động ngại đi xa; thiếu ý thức nghề nghiệp, còn ngại khó... Do đó, việc tăng cường tuyên truyền, vận động người lao động nỗ lực, chịu khó học nghề, làm việc rất quan trọng và thiết thực". Mặt khác, các cơ sở kinh tế công nghiệp ở quận, huyện còn ít, hạn chế việc làm cho lao động. Lao động nông thôn thích làm việc tự do, không quen tác phong công nghiệp, khó thích nghi và bắt nhịp công việc trong doanh nghiệp. Nhiều lớp nghề may gia dụng, may công nghiệp mời doanh nghiệp đến tư vấn, tuyển dụng trong lễ bế giảng nhưng không thu hút được lao động. Hiện nay, chưa có cơ chế, chính sách "bắt buộc" để doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ với cơ sở dạy nghề trong quá trình đào tạo và tuyển dụng lao động; chưa huy động các nguồn lực tham gia dạy nghề,... Ông Nguyễn Văn Hoàng, Phó Chủ tịch Thường trực UBND huyện Thới Lai, nói: "Huyện có quá ít doanh nghiệp tuyển dụng lao động sau học nghề theo Đề án; chưa vận động doanh nghiệp tham gia quá trình ĐTN, chỉ trông chờ kinh phí nhà nước. Một số xã triển khai điều tra, rà soát nhu cầu học nghề của lao động chưa thật sự bài bản nên thiếu sát hợp, dẫn đến hạn chế hiệu quả giải quyết việc làm sau học nghề".
Theo Ban chỉ đạo Đề án ĐTN, qua quá trình thực hiện, kinh nghiệm rút ra là cần đẩy mạnh tuyên truyền, vận động bằng nhiều hình thức, giúp người lao động tham gia học nghề, lập nghiệp; kiên quyết không ký kết hợp đồng với các cơ sở đào tạo không có kế hoạch giải quyết việc làm cho lao động. Bên cạnh việc khích lệ các địa phương xây dựng mô hình dạy nghề gắn với giải quyết việc làm mới, lưu ý duy trì và nhân rộng các mô hình hiệu quả từ trước.
Kỳ cuối: THÁO GỠ KHÓ KHĂN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY NGHỀ, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM