Sau 35 năm ra mắt, phim “Biệt động Sài Gòn” với những sự kiện và nhân vật anh hùng ghi dấu một thời “mưa bom lửa đạn” vẫn để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng. Đặc biệt, nhân vật ni cô Huyền Trang khiến người xem kính trọng và nể phục. Ít ai biết, ni cô Huyền Trang được xây dựng dựa trên cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của một nữ tu sĩ, chiến sĩ cách mạng - Ni trưởng Thích nữ Diệu Thông. Ni trưởng Thích nữ Diệu Thông đã anh dũng, kiên gan, không quản gian nan, nguy hiểm tận trung báo quốc, sống tròn đời, vẹn đạo.
Nữ biệt động áo lam
Ni trưởng Diệu Thông thời còn trẻ. (Ảnh: Đình Phong chụp lại) |
Ni trưởng Thích nữ Diệu Thông trong quân phục chiến sĩ cụ Hồ. (Ảnh: Đình Phong chụp lại) |
“Biệt động Sài Gòn” là cái tên khiến quân địch hoang mang với những trận đánh cảm tử, cam go, làm nên chiến thắng oanh liệt. Nhiều trận nổ súng, gài mìn, bắt cóc, trao đổi tù binh, những cuộc tấn công theo kiểu du kích chớp nhoáng khiến kẻ thù khiếp sợ, luôn đề cao cảnh giác.
Trong đội quân ấy có một chiến sĩ “đầu không có tóc, y phục màu lam”, góp phần làm nên tên tuổi của “Biệt động Sài Gòn”. Đó là Ni trưởng Thích nữ Diệu Thông, tên thật là Phạm Thị Bạch Liên, sinh năm 1931 tại quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay là huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp). Tuy nhiên, nhiều người lại quen thuộc với tên gọi sư cô Huyền Trang - nhân vật trong phim, đã đi vào ký ức của công chúng về một người phụ nữ Việt Nam kiên cường, bất khuất, dù bị khảo tra khắc nghiệt nhưng vẫn bền lòng, chặt dạ với cách mạng, với non sông.
Ni trưởng vốn xuất thân trong gia đình có truyền thống tu học và yêu nước. Song thân của bà đều xuất gia đi tu. Thân phụ là ông Phạm Văn Vọng, xuất gia trở thành Hòa thượng Thích Giác Quang (1891-1969). Ông đã khai sơn chùa Thất Bửu (Châu Thành, An Giang), chùa Thất Bửu (chùa Phật Nhỏ) ở núi Cấm (An Giang), chùa Kim Bửu (Đồng Tháp) và các chùa Liên Trì, Tam Bảo, Trúc Lâm ở TP Hồ Chí Minh. Những nơi này đều là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng. Thân mẫu của bà tục danh Tô Mỹ Ngọc, xuất gia trở thành Ni trưởng Diệu Tịnh.
Năm lên 9 tuổi, bà xuất gia tại chùa Phật Nhỏ (núi Cấm), sau đó tham học tại Ni trường Diệu Đức (Huế). Tại đây, bà đã cùng tăng ni theo xe của chùa đi phát gạo, phát thuốc cho dân nghèo; rồi dùng tình thế đó để đi thẳng lên chiến khu tiếp tế gạo cho bộ đội. Tuy nhiên, bất ngờ xe bị lật, bà kẹt lại ca-bin và bị thương ở đầu. Sau đó bà và một số ni sư khác bị đuổi học.
Từ Huế, bà trở về miền Nam vào năm 1959. Lúc này bà thực sự bàng hoàng, thảng thốt khi chứng kiến sự tàn độc, dã man của giặc xâm lược. Máy chém lạnh lùng của chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện luật 10/59 đã lê khắp miền Nam làm nhiều người kinh hoảng. Lúc này, “người con của Phật” ngộ ra chân lý của đạo tu hành “cốt là cứu khổ cứu nạn, không thể ngồi tu mà ngoài kia dân tình ai oán, khóc than”. Phật dạy “vô ngã” không phải là buông xuôi, buông bỏ hết, vô cảm trước chuyện bất bình mà sống sao đừng vẩn đục, không bị người đời chê trách. Cứ như thế, bà quyết chí lên Sài Gòn sống cuộc đời tu tập và thực hiện ý định táo bạo của mình.
Bà đã xây dựng nên chùa Bổn Nguyện và dần phát triển nơi đây thành một căn cứ cách mạng. Nhờ cơ duyên, bà được dẫn dắt đến với cách mạng, trở thành chiến sĩ Biệt động Sài Gòn - Gia Định (F100) lừng lẫy sau này. Từ đó, cuộc đời tu tập của ni sư Diệu Thông sang trang mới: chiến sĩ cách mạng không trong màu xanh áo lính mà trong y phục lam thiền của nhà tu hành.
Bộ phim “Biệt động Sài Gòn” phát sóng năm 1986 đã mượn cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của ni trưởng Diệu Thông vào phim ảnh qua nhân vật ni cô Huyền Trang. (Ảnh: Đình Phong chụp lại)
Cách mạng cũng chính là “vô ngã”
Để có thể hoạt động cách mạng, ngày ngày bà cùng nhiều người tất bật làm nhang, làm tương. Giữa những nia đậu tương ấy, là máy ngắm của súng cối, kíp nổ, ở dưới nền đất là lu kiệu chứa súng đạn, thuốc nổ. Chùa Bổn Nguyện là nơi đánh máy, in truyền đơn và đem rải ngoài phố. Bà trở thành mắc xích không thể thiếu trong những hoạt động bí mật ở Sài Gòn.
Được một thời gian, chùa Bổn Nguyện bị cảnh sát bắt đầu theo dõi. Tìm cách quấy phá không được, chúng đốt chùa và toàn bộ những ngôi nhà mái lá lân cận. Ni cô Diệu Thông bị địch bắt nhưng được trả tự do vì không đủ chứng cớ buộc tội. Sau đó bà chuyển về Lữ đoàn 316 tiếp tục chiến đấu cho đến ngày đất nước thống nhất.
Với ni cô Diệu Thông, cách mạng được hiểu theo cách nghĩ: “Cách mạng là cách xa cái mạng của mình, cũng có nghĩa là vô ngã”. Từ đó mà những hiểm nguy, khó khăn, không gì có thể làm bà khiếp sợ. Triết lý nhà Phật và triết lý cách mạng đã hòa quyện vào nhau hướng đến cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho bá tánh, nhân loại đại đồng. Từ một tu sĩ nhưng phải tạm thời gác bỏ những ràng buộc của đạo, phá giới tu hành, là một điều không phải đơn giản, nhưng ni cô Diệu Thông không bao giờ xem đó là điều ân hận vì theo bà: “Tôi đến với cách mạng từ con đường đạo hạnh, giác ngộ ra chân lý chính nghĩa của cách mạng và đã bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với bao hiểm nguy, thử thách đầy cam go. Toàn bộ tài sản là ngôi chùa Bổn Nguyện và Tam Bảo, tôi đóng góp vào cuộc cách mạng giải phóng đất nước. Trong chiếc áo nhà tu, chúng tôi là những chiến sĩ cách mạng”.
Nhiều trận đánh “xuất quỷ nhập thần” của Biệt động Sài Gòn làm cho địch hoang mang, cảnh giác, luôn có bóng dáng lam y của ni cô Diệu Thông. Đó là trận đánh trạm biến điện cao thế góc trường đua Phú Thọ tháng 5-1969, trận đánh cư xá hạ sĩ quan độc thân (thành Poloma) tháng 7-1969… Hòa bình, ni cô Diệu Thông tiếp tục ở lại công tác tại Phòng Tham mưu Bộ Tư lệnh TP Hồ Chí Minh và Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước cho đến ngày nghỉ hưu.
Trong bộ phim Biệt động Sài Gòn, ni cô Huyền Trang đã hy sinh. Ngoài đời thực, ni trưởng Thích nữ Diệu Thông hiện đã 90 tuổi và đang cư ngụ tại chùa Thất Bửu (thị trấn An Châu, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang). Nghe gợi lại chuyện xưa, ni sư Diệu Thông chắp tay: “Mô phật, Huyền Trang trong phim về cõi Phật, nhưng Huyền Trang ngoài đời còn nặng nợ cửa thiền. Đội Biệt động năm xưa cũng chỉ còn lại một mình bần ni, đồng đội đã đi vào cõi hư vô hết thảy. Nhiều năm nay bần ni chỉ lo kinh kệ để tâm thanh tịnh và nguyện cầu cho quốc thái dân an”.
Nói về cuộc đời của mình, bà khái quát bằng mấy vần thơ sau: “Tuổi thơ chú tiểu quét lá đa/ Nửa xuân trước đánh đuổi giặc ma/ Danh lưu sử nữ Biệt động thành/ Nửa xuân giữa lăn lộn trầm kha/ Lưng còm tỉnh mộng tâm linh hiện/ Chọn ngày giỗ mẹ quyết xuất gia/ Bảo trì ngôi Tam bảo chơn Tam Bảo/ Xuân rốt sau là một sư bà”.
Năm 1976, lực lượng Biệt động Sài Gòn vinh dự được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tặng 16 chữ vàng: “Đoàn kết một lòng - Mưu trí vô song - Dũng cảm tuyệt vời - Trung kiên bất khuất”. Năm 1969, Ủy ban Trung ương Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam trao tặng ni sư Diệu Thông Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba. Năm 1985, bà được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Ngày 19-8-2011, bà được Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng tặng “Kỷ niệm chương Tình báo quốc phòng Việt Nam”. Năm 2021, Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài - nhân lực (Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) trao tặng bà danh hiệu “Hiền tài nước Việt” về thành tích cống hiến lớn lao trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Người thực nói về nhân vật trong phim
Ni trưởng Thích nữ Diệu Thông cho biết: Rất hoan nghênh những nỗ lực của đội ngũ làm phim. Diễn viên đóng rất tuyệt vời, bộ phim diễn tả cơ bản hoạt động của đơn vị chúng tôi thời ấy. Nhất là cảnh tôi bị đòn roi tra tấn, bị địch dùng điện giật khét cả tay nhưng cương quyết không khai báo, giống hệt với những gì tôi đã trải qua. Bộ phim “Biệt động Sài Gòn” có vài chi tiết hư cấu so với đời thực nhưng vẫn chấp nhận được, ngoại trừ chi tiết yêu Tư Chung. Vì bần ni đã hướng đến cửa thiền từ nhỏ nên không bao giờ nghĩ đến chuyện yêu đương. Mà bần ni nhớ ngoài đời đánh nhau ác liệt lắm, đau thương hơn nhiều so với cảnh trong phim.
|
ĐÌNH PHONG