* MINH THƠ
Năm 1954, trong lớp học đàn tranh ở cuối xóm Đồng Năn, có một anh vệ quốc đoàn khá điển trai; trung người, dáng mảnh khảnh, làn da trắng trông rất thư sinh. Anh có lối nói năng từ tốn, nhỏ nhẹ với tất cả người lớn trẻ nhỏ. Đó là anh Ba Tình, người lính Cụ Hồ được lịnh tập trung đóng quân trong nhà dân trước khi xuống tàu tập kết ra miền Bắc.
Ban ngày, các anh bộ đội lo học chính trị, giúp dân đắp lộ, cất nhà, xây trường học, dạy chữ cho thiếu nhi, trồng rau bắt cá cải thiện đời sống v.v... Rỗi rảnh lúc đêm về, Ba Tình tranh thủ đến nhà ông Năm Chắc ở cuối xóm để học đàn tranh.
Có lẽ nhờ thiên phú khiếu văn nghệ, nên học chẳng bao lâu, ngón đàn của Ba Tình trở nên điêu luyện. Không biết có phải vì tiếng đàn tranh réo rắt khoan nhặt như chứa u ẩn nỗi niềm tâm sự của người lính sắp xa quê chăng; chẳng những ông thầy Năm Chắc mà ngay cả Út Nhung, con gái của thầy, cũng cảm mến Ba Tình đặc biệt hơn bao đệ tử khác.
Sáu Bắc, ba Nam, nhứt là các bài oán như: Trường tương tư, Giang Nam cửu khúc, Phụng cầu Hoàng duyên, Bình sa lạc nhạn v.v...
Nhiều đêm sau giờ dạy, ông Năm Chắc bảo Ba Tình ở lại. Ông đưa cho cô Út Nhung cầm cây đàn nguyệt, Ba Tình đàn tranh, còn ông thủ nhị cầm mà gõ song lang. Tiếng đàn kìm và đàn tranh, như đôi chim chỉ lướt trên bầu trời lặng gió khi thêm tiếng đàn cò vào như quyện đôi chim tâng lên vút trời mây và tiếng song lang như lời bảo hãy vững nhịp mà tung cánh trong biển tình đôi lứa.
Qua những đêm hòa nhạc, hai con tim của Tình và Nhung cũng rung động theo cung bậc của tiếng đàn. Trong lúc buông đàn giải lao, ông Năm Chắc nhấp ly trà, rít hơi thuốc thật sâu, rồi ông phì ra làn khói dài nói:
- Hai đứa bây sau nầy chắc én Nam nhạn Bắc...
Mối tình đầu đời của anh Vệ quốc đoàn ở cái tuổi mười tám, đôi mươi là như vậy đó. Biết bao bức tranh đẹp được vẽ lên trong những đêm tâm sự.
Không bao lâu, Ba Tình được lệnh xuống tàu tập kết.
Đêm chia tay, Ba Tình và Út Nhung ôm đàn xuống nhà mát ở bến sông hòa với nhau mấy bản tâm đồng như: Tứ đại oán, khúc Phượng cầu Hoàng, Thanh dạ đề huyên... Hai tiếng đàn càng về khuya càng hòa quyện nhau, dìu dặt trong đêm thanh vắng, nghe như hai mảnh tình keo sơn gắn bó không ai chia tách được. Trăng hạ tuần tháng Hai đã chếch bóng về Tây. Sương khuya xuống lạnh mà tiếng đàn sóng đôi còn réo rắt trên bờ sông vắng. Xuồng đi chợ khuya dừng tay chèo nghe, họ tấm tắc “... tiếng đàn ai như đưa họ về trên “thiên bồng nước nhược”.
Đến khi trời đã đâm mây ngang, Ba Tình và Út Nhung mới ngưng hòa nhạc, mấy chiếc xuồng đi chợ mới chịu tiếp tục hành trình. Khi chỉ còn lại hai người, Ba Tình bạo dạn nắm chặt tay Nhung, thấy cô nín thinh không có phản ứng, tay trái anh choàng ngang cổ Nhung, hai tay của cô cũng choàng qua Ba Tình, 2 gương mặt cạ sát nhau, mũi Ba Tình hít rất mạnh vào má Nhung, toàn thân anh như men say ngấm vào từng sớ thịt, để rất lâu, rất lâu... trên má anh ướt đẫm, mới hay Nhung đã khóc. Lần đó, Ba Tình mới hiểu thế nào là nụ hôn đầu đời say đắm. Thổn thức hồi lâu, Ba Tình móc trong bóp ra tấm ảnh 4x6 của anh đưa cho Nhung rồi thì thầm:
- Chẳng có kỷ vật gì để lại cho em, chỉ có tấm ảnh nầy khi nhớ tới anh lấy ra xem cho đỡ. Chỉ hai năm anh sẽ trở về, khi ấy hai ta sẽ cưới nhau!
Nhung sụt sùi, móc ở túi áo chai dầu nhị thiên đường và chiếc khăn mùi xoa đưa cho Ba Tình, nói trong tiếng nấc:
- Anh đi mạnh giỏi, nói thì nhớ giữ lời nghe, dù lâu mấy em cũng chờ anh đó! Chai dầu nè, có say sóng thì sứt, còn cái khăn, có lỡ ói thì bụm lại, để người ta cười. Em xin ba được một ít tiền Cụ Hồ, và ba cho thêm, đem theo có thèm gì thì mua ăn...
Buổi sáng hôm ấy tại bến tàu Chắc Băng, rất đông bà con là thân nhân ra tiễn người thân của mình xuống tàu tập kết. Kẻ đem quà vật, người cho tiền... đưa những người con Nam bộ ra miền Bắc, biết bao lời dặn dò nhau lời chúc phúc cho nhau: “... ra ngoải nhớ; nào là cho ba, nào là mẹ gởi lời thăm Cụ Hồ...”, “... cho con gởi lời từ giã ông nội, bà ngoại...”. Ở một góc riêng chỉ có ba người: ông Năm Chắc, Út Nhung và Ba Tình quyến luyến nhau. Ông Năm Chắc đưa cho Ba Tình cây đàn tranh có khắc tên Út Nhung bên hông cùng chiếc song lang. Ông nói:
-Cái song lang là để giữ nhịp trường canh cho đờn và khi nghe nó, đó cũng là lời giữ cho đời nhớ chữ thủy chung. Ra ngoài đó gặp Bác Hồ cho bác và bà con trong nầy kính chúc Bác sống lâu muôn tuổi và lãnh đạo lái con thuyền cách mạng đưa nước ta sớm hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhứt nước nhà...
Út Nhung lấy trong giỏ xách ra cái mùng mới, chiếc khăn choàng tấm đôi dồn vào ba lô cho Tình. Cô đưa cả giỏ xách, trong đó nào là xôi, khô cá lóc, cá sặc rằn... và cả 2 nắm đất.
Còi tàu đã 3 lần vang lên. Những vệt khói như còn quấn quít giữa kẻ ở, người đi. Rồi chiếc tàu xa dần, xa dần...
* * *
Gia đình ông Năm Chắc không ngoài hoàn cảnh những gia đình có người thân đi tập kết, phải chịu sự khủng bố dã man trắng trợn của chính quyền Ngô Đình Diệm. Chúng khuyến khích binh lính, sĩ quan: hễ tên nào dụ dỗ hoặc hãm hiếp được vợ hoặc người hứa hôn với người đi tập kết sẽ được thưởng.
Năm 1960, Út Nhung tròn 24 tuổi. Cô có mái tóc thề chấm ngang vai, gương mặt trái xoan, đôi mắt bồ câu đen như hạt nhãn... đã không lọt khỏi bao cặp mắt thèm thuồng của lũ chó săn, nhất là ai cũng biết chuyện cô hứa hôn với lính Cụ Hồ đã đi tập kết...
Một hôm, tên cảnh sát Đằng cùng đám an ninh quận vào xét nhà ông Năm Chắc. Chúng lôi đâu ra mấy bó truyền đơn “đả đảo Mỹ Diệm, đòi hiệp thương tổng tuyển cử...”, đem từ sau vườn vô cây súng mus lấm lem bùn đất, bảo là khui được hầm súng của ông Năm Chắc. Bọn chúng còng tay ông Năm dẫn đi về quận sau đó giải ông lên tỉnh, rồi đưa ông ra Côn Đảo. Và từ đó, ông Năm Chắc đã không về.
* * *
Sau những tháng năm trong quân trường ở miền Bắc, Ba Tình tiếp tục được đi học trường sĩ quan ở Liên Xô. Chiếc đàn tranh kỷ niệm không đem theo được. Ba Tình đành gởi cây đàn cho người bạn thân.
Năm năm học ở trường sĩ quan lục quân Liên Xô, Ba Tình trở về Việt Nam với tấm bằng và quân hàm thượng úy. Ngày đêm anh mong ước sớm được trở về miền Nam để trả thù cho đồng bào ta đang bị giặc khủng bố.
Phải mất ngót 6 tháng vượt Trường Sơn, đơn vị của Ba Tình mới về tới đồng bằng miền Tây vào dịp cuối năm. Những cơn gió bấc cuối mùa làm lắt lay những nhành mai nụ chờ Xuân. Ém quân ở trong nhà dân, Ba Tình nhìn qua kẽ vách, thấy cây mai trước ngõ, lòng anh bồi hồi...
Đơn vị Ba Tình nổ súng đúng giờ Giao thừa Xuân 1968. Anh chỉ huy đơn vị mình đánh vào Bộ chỉ huy vùng IV chiến thuật, đánh vào cư xá Mỹ. Trên đường tiến quân, Ba Tình bị thương bởi roc-két của trực thăng cá lẹp. Các đồng chí tải thương đưa anh vào một ngôi chùa, nơi bộ phận Quận y tiền phương đang đóng. Các y bác sĩ băng bó xong các vết thương, may mà các vết thương chỉ chạm phần mềm. Các ni cô bên cạnh chăm sóc.
Mở mắt ra, Ba Tình thấy ni cô chăm chú nhìn anh. Bốn mắt gặp nhau, tự dưng như có tia điện lóe lên. Hình như trong trí nhớ của Ba Tình thoáng qua một gương mặt trái xoan, đôi mắt đen hạt nhãn, mái tóc óng mượt của 14 năm về trước ở tận xứ Đồng Năn. Anh cố nhớ lại... gương mặt của ni cô nầy giông giống Út Nhung, nhưng lẽ nào cô ấy xuống tóc quy y, mà nếu có thì ở một chùa vùng dưới, chớ đâu trên thành phố Tây Đô nầy. “Có lẽ người giống người” - Ba Tình nghĩ: “Út Nhung năm nay đã hơn ba mươi tuổi, chắc đã có chồng con 14 năm rồi chớ ít gì... Mình cũng có vợ và đã có 2 con, chiến tranh mà!”.
Ni cô ân cần hỏi Ba Tình:
- Thí chủ thấy khỏe lại chưa? - Ba Tình gật đầu.
Có tiếng máy bay quần đảo ầm ầm. Ni cô vội bước ra ngoài xem. Một chiếc khu trục bằng chiếc ghe lườn lướt ngang chùa thật thấp. Ni cô bước vội trở lại:
- Sợ nó ném bom, để tôi dìu thí chủ xuống hầm.
Ni cô khòm xuống dìu người thương binh. Ba Tình thấy trên cổ ni cô lủng lẳng đeo một chiếc phái vuông, anh cảm thấy hơi lạ. Sau mất lượt quần đảo, chiếc khu trục quăng trái bom sát hiên chùa, làm sập một góc, may là tất cả đều xuống hầm không ai hề hớn. Sau trận bom, mọi người lên khỏi hầm. Chỉ còn Ba Tình bị thương nặng ở lại dưới hầm cùng người ni cô được phân công chăm sóc khi nãy. Các vết thương trên người Ba Tình, sau khi hết thuốc anh nghe toàn thân ê ẩm, đau buốt, anh nhăn mặt cố nén cơn đau trước mặt vị nữ tu, nhưng không tránh khỏi đôi mắt nhìn chăm chăm của ni cô qua ánh sáng chập chờn từ ngoài cửa hầm rọi vào.
Có tiếng nói từ ngoài miệng hầm vọng vào:
- Anh Ba ơi, được lịnh phải rút khỏi nơi đây gấp.
Ni cô đỡ Tình dậy, khó khăn lắm mới bò ra khỏi hầm. Trạm Quân y dã chiến đã thu xếp xong đồ đạc, một chiến sĩ đến cõng Ba Tình theo đoàn y, bác sĩ của trạm trở vô hậu tuyến.
Các ni cô trong chùa cũng tản đi nơi khác, vì được biết cả dãy phố đó là mục tiêu sẽ bị hủy diệt của giặc.
* * *
Năm 1994, Ba Tình nghỉ hưu. Lương hưu tạm đủ cho vợ chồng già sinh sống, mấy đứa con đã đi làm chu cấp thêm cho cha mẹ. Ba Tình có điều kiện đi đây đó chơi, thăm bạn bè, tham quan du lịch.
Nhân đi đám tang của người bạn rất thân ở chung đơn vị hồi kháng chiến, Ba Tình mới có dịp trở lại vùng quê hồi đó ông xuống tàu tập kết.
Qua 2 ngày ở quê bạn, Ba Tình biết ra cái xóm Đồng Năn ngày xưa, cách đây chỉ vài cây số, đi tắt qua nhà Hai Thân con trai lớn của ông Năm Chắc chỉ hơn cây số, đường đất rất dễ đi. Sau khi đưa bạn đến nơi an nghỉ cuối cùng, Ba Tình ở lại để đến cái xóm mà ngót 40 năm trước chứng kiến mối tình đầu của ông...
Ba Tình dễ dàng tìm đến nhà Hai Thân.
Đến nơi, Ba Tình thấy trong nhà có rất đông người. Đằng kia, năm bảy cậu trai làm vịt, gà. Nơi nọ, mấy người phụ nữ tất bật nấu nướng. Thấy bộ quân phục và chiếc mũ sĩ quan trên đầu của lão quân nhân đi vô, mọi người tò mò ngạc nhiên chăm chú nhìn. Chủ nhà gật đầu chào. Ba Tình bắt tay và hỏi:
- Đây có phải nhà của ông Hai Thân?
- Dạ phải, ông là ai mà biết tên tôi, xin mời vào trong dùng nước!
Chủ nhà rót nước trà mời khách. Ba Tình để tách trà xuống, không trả lời ngay câu hỏi của vị chủ nhà, mà ông hỏi lại:
- Xin lỗi ông anh, có phải ông anh đây là con của ông thầy dạy đờn tranh Năm Chắc.
- Phải, nhưng ông là ai mà biết ba tôi. Hôm nay là đám giỗ ổng...
Ba Tình hỏi thêm:
- Ông anh còn có người em gái, tên là...
Bỗng từ ngoài sân có một ni cô bước vô nhà. Chủ nhà đứng lên, tươi cười:
- Cô Út mới về!
- Chủ nhà quay qua giới thiệu với Ba Tình:
- Đây là cô Út Nhung, em gái tôi, tu ở ngoài chùa Vĩnh Phú.
Ba Tình nhìn trân trân Út Nhung. “Đúng là ni cô nầy mình đã gặp hồi năm Mậu Thân 68, tại thành phố Cần Thơ, lúc mình bị thương”. - Ông đứng lên, nghẹn ngào:
- Thưa anh Hai, cô Út, mọi người không nhận ra tôi sao? Tôi là BaTình đây!
Út Nhung để giỏ xách trái cây xuống. Cô ngó Ba Tình không chớp mắt; nghẹn giọng:
- Anh...B...a! - Cô nấc thành tiếng. Rồi như không còn sợ ai chê cười, Út Nhung chồm tới ôm chầm Ba Tình khóc như đứa trẻ. Đến khi Nhung bớt khóc, Ba Tình nhè nhẹ ôm đôi vai Nhung quay về phía trước mặt ông.
Những người bên ngoài thì thầm giải thích “Ông bộ đội đó là chồng của cô Út”, có người còn châm thêm: “Mới bữa hổm về nhà, cổ còn kể cái chuyện tình với ông bộ đội đi tập kết cho tôi nghe đây v.v...”, có người chặc lưỡi: “Vậy mà cô Út dám đợi đến mấy chục năm trời, hay thật chớ!”.
Nghe loáng thoáng những lời như vậy Ba Tình cảm thấy trong lòng ái náy. Ông dìu Út Nhung ngồi xuống ghế salon, ông ngồi cạnh bên. Nhung bình tĩnh trở lại, không còn khóc nữa, cô hỏi Ba Tình:
- Có phải năm 68, anh bị thương được đưa về ngôi chùa ở Cần Thơ?
- Nhung hỏi tiếp:
- Sao anh không nhận ra em?
- Giữa cảnh hỗn loạn, thương vong, anh không ngờ!
- Em cũng không ngờ! Chỉ nghi vậy thôi, với lại chiến tranh ì đùng tiếng súng lúc đó, kế lại anh đi, điều kiện đâu mà gặp nữa...
Hai Thân tự nãy giờ lặng thinh, nhường không gian cho em gái mình với người xưa. Bây giờ ông mới đứng dậy đi về phía bàn thờ, lấy ba nén nhang đốt lên, tay cầm nhang đưa lên xá ba lần, cắm nhang vào lư hương, Hai Thân lầm thầm khấn: “Hương hồn ba chứng giám, hôm nay ngày cúng cơm cho ba, có Ba Tình học trò của ba năm xưa về dự...”. Khấn xong, Hai Thân trở về chỗ cũ, ông nói:
- Cô Út nó khổ lắm Ba Tình ơi. Hồi đó ở một mình khó lắm, với lại Út nó cũng có chút nhan sắc, càng khó hơn. Tôi bàn với Út mượn chốn thiền môn mà nương náu cho qua ngày để chờ sum họp. Sau khi ông già bị đày ra Côn Đảo mấy năm, Út theo cô bạn về Cần Thơ tu để tránh hẳn bọn ác ôn. Sau ngày hòa bình, Út nó về xây cái am tu một mình ngoài chợ Vĩnh Phú.
Lễ giỗ đã xong mọi người lần lượt từ giã ra về. Đám kỵ cơm về chiều chẳng còn lại mấy người. Trên gian nhà khách, Nhung và Tình ngồi đối diện nhau trên bộ salon.
Khi mới nghe chuyện Ba Tình có được bốn đứa con, đã có công ăn việc làm ổn định. Út Nhung cho rằng Ba Tình bất thủy chung với mình. Nhưng sau khi biết cuộc hôn nhân của Ba Tình là sự đáp ân nghĩa với người chăm sóc anh - vợ anh bây giờ - sau lần Ba Tình suýt chết vì cơn bịnh sốt rét ác tính ở Viện Quân y ngoài Bắc. Út Nhung cũng cảm thông. Tuy nhiên Út Nhung nghe tim mình quặn thắt. Cô ngẫm lời tiên đoán của cha hồi xưa có lý - họ từ đó đã “én Nam nhạn Bắc”: Xưa do chiến tranh chia cắt, còn nay mọi sự lỡ làng... Út Nhung chậm rãi cởi chiếc phái đang đeo trước ngực xuống, hai tay thư thả bóc từng lớp vải. Đến lớp bọc nhựa, gói tấm hình 4x6 của Ba Tình còn nguyên vẹn như cách nay 40 năm. Út Nhung đưa cho Ba Tình nói:
- Tấm ảnh em luôn mang suốt 40 năm qua. Như có anh bên em vượt qua muôn ngàn hiểm nguy gian khổ. Em chọn đường tu ngoài việc để che mắt giặc, còn để đợi lời hứa người xưa thành hiện thực!...
Út Nhung vội vàng ấn tấm ảnh vào tay Ba Tình rồi bước vội vào buồng.
* * *
Năm rồi, đám tang của Ba Tình ở miệt Xáng Xà No có rất đông đồng chí, bạn bè đến đốt nhang vĩnh biệt. Có hai người phụ nữ, một nói giọng Bắc và một ni cô chít khăn tang.
Đông 2007