19/07/2009 - 20:20

Chấm dứt quan hệ lao động

Hỏi: Tôi là chủ doanh nghiệp tư nhân, có sử dụng trên 10 lao động làm việc. Do chưa được rõ những quy định về việc chấm dứt quan hệ lao động được quy định tại Điều 38 Bộ luật Lao động, nay tôi nhờ tư vấn giúp, để tôi thực hiện đúng luật, nhất là lý do người lao động không hoàn thành nhiệm vu.

Ông Nguyễn Tuấn Tùng
(ở quận Ô Môn, TP Cần Thơ)

Về vấn đề này, luật sư Nguyễn Thị Hoàng, Đoàn Luật sư TP Cần Thơ, trả lời như sau:

Về nguyên tắc, người sử dụng lao động (NSDLĐ) có quyền chấm dứt quan hệ lao động với người lao động (NLĐ), khi có những căn cứ được quy định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động:

- NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ); NLĐ bị xử lý kỷ luật sa thải (quy định tại Điều 85 Bộ luật Lao động);

- NLĐ làm theo HĐLĐ không xác định thời hạn ốm đau đã điều trị 12 tháng liền, NLĐ làm theo HĐLĐ xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng ốm đau đã điều trị 6 tháng liền và NLĐ làm theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng ốm đau đã điều trị quá nửa thời hạn HĐLĐ, mà khả năng lao động chưa phục hồi. Khi sức khoẻ NLĐ bình phục, thì được xem xét để giao kết tiếp HĐLĐ;

- Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của Chính phủ, mà NSDLĐ đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.

Tuy nhiên, việc chấm dứt đó chỉ được coi là hợp pháp, nếu NSDLĐ tuân thủ đúng quy định về mặt thủ tục chấm dứt được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 38 Bộ luật Lao động. Trên thực tế, các doanh nghiệp hiện nay viện lý do được quy định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động cho rằng: “NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc theo HĐLĐ”. Vì thế, khi người sử dụng lao động chấm dứt HĐLĐ với NLĐ thì cần chú ý:

1. Căn cứ chấm dứt:

- NLĐ phải có hành vi không hoàn thành công việc theo HĐLĐ, cụ thể là NLĐ không hoàn thành định mức lao động hoặc nhiệm vụ được giao.

- Việc không hoàn thành định mức lao động hoặc nhiệm vụ được giao là do yếu tố chủ quan của NLĐ.

- NLĐ đã bị NSDLĐ lập biên bản hoặc nhắc nhở bằng văn bản ít nhất hai lần trong một tháng.

- Mà sau đó (được hiểu là trong khoảng thời gian ba tháng, từ lần vi phạm thứ hai đến lần vi phạm tiếp theo), NLĐ có hành vi vi phạm.

2. Thủ tục chấm dứt:

Trước khi chấm dứt HĐLĐ với NLĐ có hành vi không hoàn thành công việc, NSDLĐ phải trao đổi, nhất trí với Ban chấp hành Công đoàn cơ sở. Trong trường hợp, Ban chấp hành Công đoàn cơ sở không nhất trí với quyết định chấm dứt của NSDLĐ thì NSDLĐ phải báo cho Sở Lao động – Thương binh và Xã hội biết. Sau 30 ngày, kể từ ngày báo cáo, NSDLĐ mới có quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

Ngoài ra, NSDLĐ còn phải thực hiện nghĩa vụ báo trước cho NLĐ. Thời hạn báo trước tùy thuộc vào thời hạn HĐLĐ. Nếu NLĐ làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn thì NSDLĐ phải báo trước ít nhất 45 ngày; nếu NLĐ làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng thì NSDLĐ phải báo trước ít nhất 30 ngày; nếu NLĐ làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc một công việc nhất định mà thời hạn dưới 12 tháng, thì NSDLĐ phải báo trước ít nhất 3 ngày.

NG.B (thực hiện)

Chia sẻ bài viết