30/06/2020 - 06:00

Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định, bản án của tòa án 

Thời gian qua, người sử dụng đất thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng đất theo quyết định, bản án của tòa án diễn ra tương đối phổ biến. Pháp luật quy định cụ thể về việc thực hiện quyền này của người sử dụng đất.

Phần đất của ông P. thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất theo bản án.

Qua nhiều năm tranh chấp quyền sử dụng đất, sau cùng, vụ kiện tranh chấp giữa ông N.T.P và N.V.V, cùng ngụ phường Thới An, quận Ô Môn, đã được giải quyết ổn thỏa. Ông P. cho biết: “Năm 2004, vợ chồng tôi có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chiều ngang 6m; dài 42m, của vợ chồng ông V. Việc chuyển nhượng này chỉ làm giấy tờ tay, có sự chứng kiến của các hộ lân cận. Tuy nhiên, sau đó, vợ chồng chủ đất không chịu đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để chúng tôi tách thửa, đăng ký quyền sử dụng đất, nên phát sinh tranh chấp”.

Vụ việc này, Hội đồng tư vấn, giải quyết tranh chấp đất đai của UBND phường Thới An hòa giải không thành, nên chuyển đến Tòa án Nhân dân (TAND) quận Ô Môn xem xét, giải quyết bằng bản án dân sự sơ thẩm số 07/2014/DS-ST. Theo đó, TAND quận đã tuyên xử hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông P. và ông V. Đồng thời, tuyên buộc vợ chồng ông V. có trách nhiệm hoàn trả cho vợ chồng ông P. 50 chỉ vàng 24K. Quá trình thi hành án, do ông V. không đủ tiền để hoàn trả cho ông P. theo bản án nên đã thỏa thuận giao đất cho ông P. Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn đã tổ chức thi hành án, giao phần đất cho vợ chồng ông P. theo thỏa thuận. Ông P. đang liên hệ với chính quyền và ngành chức năng quận Ô Môn để thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định.

Khi bắt tay vào đăng ký quyền sử dụng đất, ông P. lúng túng. “Trường hợp thực hiện theo bản án của tôi thì việc đăng ký quyền sử dụng đất phải chuẩn bị hồ sơ như thế nào, liên hệ với cơ quan nào để được xem xét, giải quyết?” -  ông P. thắc mắc.

Tại điểm k khoản 4 Điều 95 Luật Đất đai năm 2013 quy định trường hợp quyền sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận mà có sự thay đổi quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quyết định hoặc bản án của TAND, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án đã được thi hành, phải thực hiện đăng ký biến động.

Theo Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận Ô Môn, căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 3 Điều 7 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT, khi thực hiện thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất trong trường hợp trên, hồ sơ cần chuẩn bị gồm: đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo Mẫu số 09/ĐK; bản gốc giấy chứng nhận đã cấp, trừ trường hợp thực hiện quyết định hoặc bản án của TAND, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án đã có hiệu lực thi hành hoặc thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo yêu cầu của TAND, cơ quan thi hành án mà không thu hồi được bản gốc giấy chứng nhận đã cấp; quyết định hoặc bản án của TAND. Trường hợp phân chia hoặc hợp nhất quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của tổ chức phải có văn bản chia, tách, hợp nhất, sáp nhập tổ chức theo quy định của pháp luật; trường hợp phân chia hoặc hợp nhất quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình phải có sổ hộ khẩu kèm theo; trường hợp phân chia hoặc hợp nhất quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của vợ và chồng phải có sổ hộ khẩu hoặc giấy chứng nhận kết hôn hoặc ly hôn kèm theo.

Trong thời hạn 30 ngày làm việc, cơ quan đăng ký đất đai giải quyết hồ sơ. Nếu hồ sơ chưa đầy đủ thì yêu cầu người nộp có trách nhiệm hoàn thiện và bổ sung hồ sơ. Sau thời hạn 30 ngày phải có kết quả, nếu thấy đủ điều kiện thì cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho người sử dụng; nếu chưa đáp ứng đủ thì phải ra thông báo trả hồ sơ, nêu rõ lý do trả và không giải quyết.l

Bài, ảnh: Chấn Hưng

Chia sẻ bài viết