18/05/2016 - 13:53

Nông sản sạch, an toàn

Cần gỡ từng “nút thắt”!

Làm thế nào để xóa hẳn sản phẩm nông nghiệp có dư lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật vượt mức cho phép? Không con đường nào khác là ứng dụng và phát triển một nền nông nghiệp hữu cơ, từng bước xây dựng chất lượng nông sản sạch, an toàn!

*Xu thế tất yếu!

Thực phẩm sạch, nông sản an toàn là mong muốn toàn xã hội. Một trong những vấn đề đặt ra thời gian qua là: Vì sao Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản phẩm nông sản theo hướng hàng hóa nhưng vẫn không thể triển khai?! Tiến sĩ Võ Hữu Thoại, Viện Cây ăn quả miền Nam, cho rằng: Việc lạm dụng phân hóa học hoặc bón phân không cân đối giữa tỷ lệ N, P, K ít hoặc không sử dụng phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh) trong thời gian dài đã làm cho đất bị chai, giảm độ phì, sâu bệnh ngày càng tăng... Bên cạnh đó, sự đa dạng của các loại thuốc hóa học trừ sâu bệnh trên thị trường cũng như việc sử dụng thuốc không theo nguyên tắc "4 đúng"... đã gây tích lũy dư lượng các kim loại nặng trong sản phẩm, ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng, cũng như rào cản cho nông sản Việt Nam xuất khẩu.

Cây ớt từ lâu cũng chỉ được canh tác theo tập quán nhưng nông dân rất xa lạ khi nói đến sử dụng phân hữu cơ.

Vì vậy, vấn đề hữu cơ hóa, dần xóa bỏ dư lượng hóa chất, độc tố cao trong nông sản đối với cây trồng, vật nuôi đang là mong muốn không chỉ của người tiêu dùng mà của chính người sản xuất. Không ai sản xuất ra sản phẩm mà để người mua cứ mãi quay lưng. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ thực tiễn là sản xuất chú trọng yếu tố tự nhiên, đảm bảo cho sức khỏe cho người sản xuất lẫn tiêu dùng. Theo đánh giá của Cục Trồng trọt, Bộ NN&PTNT, việc sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam đã có từ lâu nhưng chỉ mới được quan tâm thời gian gần đây khi mất an toàn vệ sinh thực phẩm trong nông sản đã đến mức báo động. Do đó, nâng cao chất lượng nông sản, đảm bảo an toàn vệ sinh nông sản và thân thiện môi trường chính là mục tiêu hướng tới của ngành nông nghiệp trong tương lai.

Nông nghiệp hữu cơ phải khai thác tổng hợp tất cả các yếu tố tự nhiên sẵn có, như: độ phì của đất; sử dụng nguồn gien, giống cây trồng bản địa thích nghi; khai thác hợp lý nguồn nước, thời vụ và các nguồn phân hữu cơ. Và đặc biệt, ứng dụng tốt nông nghiệp hữu cơ chính là giải quyết rốt ráo, cơ bản nhất vấn đề sử dụng các hóa chất gây độc hại cho cây trồng và môi trường sống, như: phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc kích thích tăng trưởng, tăng trọng, hóa chất bảo quản... Tiến sĩ Võ Hữu Thoại, Viện Cây ăn quả miền Nam, cho rằng: "Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập thế giới, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là một trong những yếu tố để tồn tại và mở rộng thị trường. Trong đó, vấn đề chất lượng, vệ sinh và an toàn thực phẩm là mối quan tâm hàng đầu của mọi người, từ nhà sản xuất, vận chuyển, phân phối, quản lý và hoạch định chính sách cho đến người tiêu dùng. Việc sử dụng phân hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp hiện là xu hướng tất yếu của các nước trên thế giới nhằm cải thiện phẩm chất nông sản theo hướng chất lượng và an toàn thực phẩm, tăng năng suất cây trồng, hạn chế được sự nghèo kiệt của đất, giảm ô nhiễm môi trường, góp phần xây dựng một nền nông nghiệp bền vững".

*Cần gỡ từng "nút thắt"

Tiến sĩ Vũ Anh Pháp, Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, Trường Đại học Cần Thơ, cho rằng: Từ cuối những năm 1990 đến nay, sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn vì gặp không ít khó khăn. Trong khi đây là xu thế đã phát triển của nhiều nước trên thế giới. Theo các chuyên gia cố vấn chuỗi giá trị IFOAM (Liên đoàn các phong trào nông nghiệp hữu cơ quốc tế), trở ngại đầu tiên khi xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ chính là nhận thức của người dân về vấn đề này còn hạn chế. Bên cạnh đó, tập quán sử dụng hóa chất trong sản xuất nông nghiệp nhiều năm qua đã khiến người sản xuất không đủ tự tin để hướng đến nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ, chất lượng và an toàn.

Thực tiễn khi chính thức bắt tay vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ, hàng loạt các điểm yếu đã bộc lộ từ ý tưởng, mô hình đến cả chính sách. Bất lợi đầu tiên đã được chính những chuyên gia từ Cục Trồng trọt chỉ rõ: Biện pháp sinh học đóng vai trò cốt lõi trong hệ thống biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) đã được thực tiễn chứng minh tại nước ta từ những năm 1990. Nhưng, số lượng tên thương phẩm của chế phẩm sinh học có tăng nhưng lượng sử dụng lại hạn chế. Quy mô sản xuất các chế phẩm sinh học trong nước còn nhỏ, chưa thể đáp ứng đủ để phòng chống khi có dịch xảy ra. Việc bảo quản chế phẩm sinh học lại khó khăn, mà vùng trọng điểm canh tác lại là vùng sâu, vùng xa. Mặt khác, đầu tư kinh phí nghiên cứu chuyển giao ứng dụng chế phẩm sinh học chưa nhiều và thường xuyên. Vấn đề cốt lõi cũng từ công nghệ khi hầu hết các chế phẩm sinh học sản xuất thủ công trong nước có giá thành đắt, nhập khẩu thì cũng cao hơn chính các sản phẩm vô cơ.

Theo các chuyên gia, đầu tư cho nông nghiệp hữu cơ đòi hỏi năng lực tài chính rất cao, phải theo đuổi đường dài, chấp nhận chịu thiệt thòi những năm đầu. Sản xuất hữu cơ cơ bản là phương pháp thủ công, chịu nhiều tốn kém nên năng suất lao động cao, giá thành vượt gấp 2 - 3 lần so với canh tác bình thường - tức dùng phân thuốc vô cơ, trong khi giá bán hiện lại không hơn nhiều và thị trường thì vẫn thế. Một số liệu nghiên cứu của Bộ NN&PTNT phối hợp Hội Nông dân Việt Nam cho thấy, tỷ lệ nông dân Việt Nam có diện tích ứng dụng hữu cơ trong sản xuất năm 2015 gần như "đứng yên" so với con số năm 2010 đạt 2% tổng diện tích đất nông nghiệp cả nước. Tiến sĩ Hoàng Văn Tám, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, nhìn nhận: Con số thống kê cho thấy, ước lượng phân hữu cơ truyền thống chỉ thể đáp ứng dưới 20% nhu cầu phân hữu cơ hiện tại. Hơn 80% còn lại chỉ có thể được cung cấp bằng phân hữu cơ chế biến. Nhưng hiện nay cả nước chỉ có khoảng 500 cơ sở sản xuất phân hữu cơ, sản lượng khoảng hơn 600.000 tấn/năm là quá ít.

Không dừng lại ở những bất cập trên, hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có tổ chức nào đủ tư cách pháp nhân lẫn trình độ xây dựng quy chuẩn để cấp giấy chứng nhận cho sản phẩm hữu cơ. Chính vì vậy các sản phẩm nông sản sản xuất hữu cơ xuất khẩu lại phải "nhờ vả" từ các tổ chức nước ngoài như IOM, AS, Control Union, liên hiệp kiểm soát SKAL, ICEA, ACT...  Mỗi tổ chức, quốc gia có quy chuẩn, đạt nơi này, nơi khác không nhận và ngược lại nên cứ loay hoay. Mấu chốt cuối cùng vẫn là chính sách! Khi chúng ta đã, đang gắng sức vì nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ hiện đại thì chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp vẫn chưa có. Duy chỉ năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định 01/2012/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ việc áp dụng thực hành nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản bao gồm hữu cơ nhưng lại chỉ hỗ trợ cho an toàn/GAP.

Tất cả vấn đề trên không chỉ gói gọn trong tiêu dùng trong nước mà chính là hướng đến nông sản sạch, bền vững và xuất khẩu bền vững. Tiêu chuẩn chất lượng, quy trình sản xuất từ trong nước đến quốc tế đều có như  quản lý dịch hại IPM/ICM, VietGAP, GobalGAP, ISO... được triển khai và áp dụng từ lâu nhưng vì sao đến nay vẫn còn giá trị thời sự nóng hổi. Vì sự hám lợi, là sự thiếu hiểu biết của một bộ phận người sản xuất, phân phối, là sự chậm trễ trong chính sách hay thực chất chính là do chúng ta chưa đủ cả tâm, tầm và nền móng xây dựng cho nó?! Đã đến lúc cần có câu trả lời thỏa đáng cho các vấn đề vừa nêu mà lâu nay vẫn còn bỏ ngỏ.

Bài, ảnh: Nguyễn Huỳnh

Chia sẻ bài viết