“Cửa Dương có bãi cát vàng
Có nơi Dinh Cậu, có nàng bồng con”
Không biết tự bao giờ, Dinh Cậu đã trở thành một trong những biểu tượng của đảo ngọc Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang). Nơi đó không chỉ biểu trưng cho tín ngưỡng dân gian của cư dân miền biển mà còn thể hiện khát vọng mưa thuận, gió hòa, sóng yên biển lặng, để vươn khơi bám biển.
Dinh Cậu nằm trong hệ thống tín ngưỡng thờ mẫu và nữ thần của cư dân miền biển Phú Quốc, được những ngư dân miền Trung đưa vào trong quá trình Nam tiến vào khoảng cuối thế kỷ XVII. Cũng như bao cư dân miền biển khác, người Phú Quốc rất tin tưởng Bà - Cậu, gọi nghề chài lưới là “nghề Bà - Cậu”, mọi việc thuận lợi trên biển khơi đều nhờ Bà - Cậu độ trì. Dinh Cậu ra đời từ niềm tin như thế.
Cảnh đẹp Phú Quốc từ Dinh Cậu nhìn xuống. Ảnh: DUY KHÔI
Dinh Cậu từ đầu là ngôi miếu nhỏ, xuất hiện vào cuối thế kỷ XVII; đến năm 1937 được xây cất kiên cố và sau nhiều lần trùng tu mới được khang trang như hiện nay. Về xuất xứ Dinh Cậu, người dân Phú Quốc còn lưu truyền truyền thuyết rằng, khi chưa có tên Phú Quốc, vùng đất này gọi là Xích Thổ, tức vùng đất có màu đỏ, chịu sự cai quản của Thủy Long Thần nữ, thường gọi là Bà Chúa Đảo. Bà có người con mà bà rất mực thương yêu, người hạ bạc quen gọi là Cậu, tánh khí rất thất thường. Vì cãi lời mẹ giải thoát Sấu tinh đang bị giam cầm nên Cậu phải đời đời ngồi trên lưng Sấu tinh để canh giữ, dù nó đã hóa đá. Cám cảnh Cậu phải dầm mưa dãi nắng nên dân làng dựng miếu ngay lưng chừng núi đá. Bà con quen gọi là Dinh Cậu, mỗi chuyến ra khơi đều đến van vái Bà và Cậu phù hộ bình an, thuận buồm xuôi gió.
Lại có một truyền thuyết khác, chúng tôi ghi nhận được qua lời kể ông Nguyễn Khải, một ngư dân sống truyền đời ở Phú Quốc. Theo đó, Dinh Cậu ngày xưa có tên Long Vương Thần Miếu, chánh điện gọi là Thạch Sơn Điện. Mấy trăm năm trước, người dân Phú Quốc sống bằng nghề chài lưới, nhiều ngư dân ra khơi gặp sóng dữ đã mãi mãi không về. Thế rồi một ngày nọ bỗng nổi lên một mũi đá ngay cửa biển. Cho là điềm linh ứng, nhân dân đã cất một ngôi miếu để cầu mong được thần linh che chở. Ban đầu làm bằng cây lá, trải qua nhiều lần trùng tu, đến nay dinh đã khang trang, bề thế hơn.
Ông Khải còn kể, hồi những năm 1930, cha ông là một ngư dân đi tàu cá, bị cơn sóng lớn vỗ bể tàu, sắp chìm, tưởng đã thiệt mạng. Ai ngờ, một cơn sóng lớn cao hàng chục mét đẩy tàu lên cao rồi đưa vào bờ. Cha ông cùng anh em thợ thuyền ai cũng tin rằng đó là sóng Long Vương, cứu giúp ngư dân bị nạn trên biển khơi.
Dinh Cậu là chốn thiêng liêng của cư dân miền biển. Ảnh: DUY KHÔI
Dinh Cậu được xây cất trên gành đá có hình đầu con rùa, vì vậy mà câu đối trong dinh ghi:
“Tọa tại thạch đầu quy danh hiển
Chấn phong bình lảng bảo lương dân”.
Nghĩa là: Dinh nằm trên tảng đá hình đầu rùa hiển linh, che chắn sóng gió bảo vệ dân lành.
Dinh Cậu cất theo kiến trúc hình chữ Đinh, mặt hướng ra biển, cách thị trấn Dương Đông vài trăm mét, theo hướng Tây. Phía trước Dinh có bình phong và mô hình tàu cá hướng ra khơi.
Trong Chánh điện, nơi chánh trực thờ Chúa Ngọc Nương nương, hai bên là Cậu Quý (phải) và Cậu Tài (trái), cùng Tả Ban, Hữu Ban, Sơn thần, Thần Tài và Thổ địa. Theo lời người dân truyền tụng, mỗi khi ngư dân đóng tàu mới, chuẩn bị ra khơi hay thu hoạch cá tôm trúng vụ đều đến để cầu khấn Bà - Cậu. Vật phẩm cúng quan trọng nhất là cặp gà và cặp vịt, theo quan niệm “Ông cúng gà, bà cúng vịt”. Gặp sự cố khi ra khơi, làm ăn thua lỗ… bà con thường cho là Bà - Cậu quở. Lời rủa: “Bà - Cậu nhận chìm ghe” là lời cực kỳ nặng nề, đáng sợ! Uy linh của Bà - Cậu được thể hiện qua hai câu đối trước Chánh điện Dinh Cậu:
“Vạn cổ anh linh thông thiên địa
Thiên thu hiển hách chiếu càn khôn”.
(tạm dịch: Muôn đời anh linh chiếu trời đất, ngàn thu hiển hách chiếu rọi càn khôn)
Lễ hội Dinh Cậu diễn ra vào ngày 15-16 tháng 10 âm lịch hằng năm, nghi thức khá giống lễ Kỳ yên, nhưng thực chất là lễ Cầu ngư, trong đó Bà và Cậu là đối tượng cúng tế quan trọng nhất. Đặc biệt, trong lễ hội Dinh Cậu có thêm phần múa - hát Bóng Rỗi rất đặc sắc.
Đến Dinh Cậu thắp nén hương gửi lòng đến đấng thần linh, đưa mắt ngắm nhìn hoàng hôn dần buông trên biển thật sự là trải nghiệm lý thú. Cảnh đẹp nơi Dinh Cậu làm say lòng bao tao nhân mặc khách. Năm 1927, thi sĩ Đông Hồ khi đến Cửa Dương đã trầm trồ: “Người khách du - quan mới đến Dương Đông cảm nhận được cái đẹp trước nhất là ở cảnh cửa này, một bên là bãi cát trắng, bóng dương tha thướt, một bên là ghềnh đá như cái đồi con, chắn ngang vàm sông, hình thù kỳ kỳ quái quái. Chiều chiều trèo lên ghềnh đá ấy mà trông cảnh chiều hôm, nước mây man mác, bên kia bóng tà dương bảng lảng, bên này chiếc thuyền trong vàm sông xuôi ra, cánh buồm trắng phất qua ghềnh đá biếc, mũi thuyền rẽ nước, thì đẹp biết chừng nào”.
Cũng bởi cảnh sắc như chốn tiên cảnh bồng lai như thế mà nhiều nhà thơ, học giả khi đến đây đã tức cảnh sinh tình, viết văn, làm thơ. Nhiều bài trong số ấy được khắc lên vách Dinh Cậu.
Nhân ngày lập thành Dinh Cậu năm 1937, tác giả Khưu Bá Linh có thơ rằng:
“Đỗ gia háo thiện tạo Dinh thành
Kim niên Đinh Sửu chiếu hiển danh
Cự tá lập chính danh bia tạc
Khưu tả thơ đề chính thư sinh
Bá gia bản xứ đồng ca ngợi
Linh miếu trùng tu tái lập thành
Kinh cầu Phú Quốc muôn nhà thịnh
Tặng ông cả Cự có chí thành”.
Ông Cử - Thiên Đức thì có bài thơ vịnh, có đoạn:
“Oai linh trấn vũ nước non này
Hớp ngọn ba đào dạ chẳng say
Chí vững so gan cùng nhật nguyệt
Anh hùng há dễ thẹn trời mây”.
* * *
Ngày nay, Dinh Cậu là một địa điểm du khách không thể bỏ lỡ khi đến Phú Quốc. Dinh Cậu chính là biểu tượng niềm tin về sự an lành của cư dân miền biển, làm phong phú hơn tín ngưỡng dân gian của đảo ngọc Phú Quốc. Dinh Cậu đã được UBND tỉnh Kiên Giang xếp hạng Di tích cấp tỉnh, loại hình Danh lam thắng cảnh, vào năm 2012.
DUY LỮ
Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Bình Phương Thảo, Nguyễn Thanh Lợi, “Tín ngưỡng dân gian Phú Quốc”, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2016.
- Huỳnh Phước Huệ, “Di tích Danh lam thắng cảnh Dinh Bà Dinh Cậu”, NXB Hồng Đức, 2015.