Về công cuộc đào kinh ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn, kinh Vĩnh Tế được nhiều người biết nhất và năm 2024 tỉnh An Giang kỷ niệm 200 năm hoàn thành dòng kinh lịch sử này. Tuy nhiên ít ai biết có một dòng kinh ra đời sau đó, có thể được xem như sự nối dài của kinh Vĩnh Tế, đó là kinh Vĩnh An. Cũng trong năm 2024, kinh Vĩnh An tròn 180 tuổi.
Một đoạn kinh Vĩnh An năm 1998.
Bối cảnh ra đời của kinh Vĩnh An
Kinh Vĩnh Tế được đào năm 1819, hoàn thành năm 1824, nối thành Châu Ðốc (tỉnh lỵ tỉnh An Giang khi đó, ngày nay là TP Châu Ðốc, tỉnh An Giang) đến thành Hà Tiên (tỉnh lỵ tỉnh Hà Tiên khi đó, ngày nay là TP Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang). Ðiểm đầu của kinh Vĩnh Tế là sông Hậu, điểm cuối là biển Tây; giúp ghe xuồng qua lại giao thương thuận lợi, hai thành Châu Ðốc và Hà Tiên cũng dễ dàng cứu nguy cho nhau lúc binh đao.
Tuy vậy, Châu Ðốc nằm bên bờ sông Hậu, cũng rất cần sự thông thương với Tân Châu phía sông Tiền (ngày nay là thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang) về cả thương mại lẫn quân sự. Do đó gần hai mươi năm sau, một con kinh lại ra đời, đó là kinh Vĩnh An.
Theo “Quốc sử quán triều Nguyễn”, Tổng đốc Ðịnh Biên (Gia Ðịnh - Biên Hòa) Lê Văn Ðức tâu vua Thiệu Trị vào năm 1842: “Từ Hậu Giang đến Tân Châu và An Lạc ở Tiền Giang tất phải từ Thuận Cảng đi lên, trải 3 - 4 ngày đi quanh co, vừa chậm vừa khó, đi lại thật thấy bất tiện. Vậy: một đoạn từ An Giang đi ngang qua Tân Châu và An Lạc, xin cho quan tỉnh thuê vát quân, dân đào thành đường sông để dễ cho sự khống chế tiếp ứng. Ðó cũng là một việc cốt yếu nên làm”.
Quả vậy, nếu xét theo đường thẳng, Châu Ðốc cách Tân Châu 17km. Tuy nhiên, đi từ Châu Ðốc đến Tân Châu thời đó, kinh rạch tự nhiên có thể di chuyển thuận lợi chỉ có sông Vàm Nao (sử triều Nguyễn cũng gọi là Thuận Cảng, Thuận Giang). Dòng sông này cách Châu Ðốc khoảng 30km, cách Tân Châu khoảng 40km. Từ Châu Ðốc sang Tân Châu, phải từ Châu Ðốc đi theo sông Hậu khoảng 30km xuống Vàm Nao, rồi từ Vàm Nao đi theo sông Tiền khoảng 40km lên Tân Châu. Vả lại, đường sông Vàm Nao đã nhiều lần là đường hành quân của ngoại xâm. Nếu Châu Ðốc thất thủ, giặc từ đó đi theo sông Hậu xuống Vàm Nao, rồi rẽ sang sông Tiền và tỏa quân tiến đánh các tỉnh lân cận. Khi đó, quân ta khó bề ứng cứu, hoặc gặp mai phục.
Cũng theo “Quốc sử quán triều Nguyễn”, sau khi trù tính, tỉnh An Giang tâu lên: “Nhân công dùng làm việc này, phải tới 72.522 công, phải thuê 10.000 dân phu ở 3 tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Ðịnh Tường và vát 2.000 biền binh các hạng đi làm, ước tới 2 tháng mới xong. Nhưng hiện nay trời nắng dữ, nhân dân phần nhiều cảm nhiễm sinh bệnh, xin hãy cho tạm hoãn”. Vua chấp thuận.
Quá trình đào kinh Vĩnh An
“Quốc sử quán triều Nguyễn” có ghi: Tháng 11 (âm lịch) năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), Tổng đốc An Hà (An Giang - Hà Tiên) là Nguyễn Công Nhàn, Thự Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long - Ðịnh Tường) Nguyễn Tri Phương, Tuần phủ An Giang Nguyễn Công Trứ tâu: “Việc đào sông Tân Châu ở tỉnh An Giang trước đã xin hoãn lại, nay đến tiết mùa đông khô ráo, xin thuê 5.000 dân phu khơi trước một đoạn (dài 550 trượng), trong một tháng thì cho về, đợi sang xuân, sẽ làm tiếp”. Vua y cho.
Quá trình đào kinh Vĩnh An rất công phu. Trong “Lịch sử khẩn hoang miền Nam”, nhà văn Sơn Nam viết: “Một tài liệu của phủ Hoằng Ðạo tỉnh Vĩnh Long (Bến Tre, cù lao Bảo) cho biết dân phu phủ này đi đào kinh Vĩnh An gồm 8 đội, mỗi đội 50 người, có viên phó tổng hoặc lý dịch coi sóc. Mỗi đội mang theo 10 cây cuốc, 10 cây mai, phảng, rìu, cây mù u, gàu nước, gióng, gánh, ky, mỗi thứ 30 cái, lại còn dây tre dài hơn 1 trượng. Viên chức ở tỉnh tới địa điểm đào kinh từ trước để cất trại cho dân phu ở. Cứ 15 ngày thay đổi một lần cho dân nghỉ ngơi”.
Một đoạn kinh Vĩnh An ngày nay.
Kinh được đào dưới sự chỉ huy của hai danh tướng Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhàn. Quá trình đào kinh gồm hai đợt, đợt đầu từ tháng 11 đến tháng 12 năm 1843, đợt sau từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1844. Khi đào xong, kinh dài 17km, rộng trung bình 15m, sâu 6m. Vàm (cửa) kinh ở sông Hậu nằm gần bảo Châu Giang (ngày nay là xã Châu Phong, thị xã Tân Châu) và đối diện thành Châu Ðốc bên kia sông Hậu. Vàm kinh ở sông Tiền nằm gần bảo Tân Châu và lỵ sở huyện Ðông Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang (ngày nay là nội ô thị xã Tân Châu). Ban đầu kinh có tên là Long An hà, sau khi đào xong đổi thành Tân Châu hà.
Tháng 4 (âm lịch) năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), theo “Quốc sử quán triều Nguyễn”: “Sông Tân Châu ở tỉnh An Giang đã đào xong. Mùa đông năm ngoái, bắt đầu đào đường sông từ cửa sông Châu Giang ngang qua sông Tiền Giang, đồn Tân Châu (dài 3.695 trượng), cuối năm thì nghỉ việc; mùa xuân năm nay lại làm. Thuê nhân công làm việc này, cấp cho tiền và gạo. Vừa một tháng thì sông đào xong (trên rộng 6 trượng, dưới rộng 3 trượng, sâu trên dưới 9 thước. Dùng cọc tre: 33.300 đoạn; tiền thuê: 63.021 quan; gạo: 21.021 phương). Thưởng tất cả cho nhân viên chuyên biện, thừa biện có khác nhau. Trước đặt tên là sông Long An; đến đây, đổi gọi là sông Tân Châu”.
Tương tự, “Ðại Nam nhất thống chí” biên soạn dưới triều vua Tự Ðức cũng mô tả: “Tân Châu hà: Ở bên cạnh huyện trị Ðông Xuyên. Ðường sông từ Tân Châu bảo ở Tiền Giang thông đến Châu Giang thủ ở Hậu Giang […] Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) khởi đào, nhà vua cho tên là Long An hà, sau đổi lại tên này”.
Theo truyền khẩu của người địa phương, con kinh có tên là Vĩnh An Hà nhằm nhắc nhớ nhân công đào kinh từ ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Tuy nhiên, chữ “hà” có nghĩa là sông, danh từ chung không phải danh từ riêng và chưa tìm thấy vai trò của đội ngũ nhân công đến từ tỉnh Hà Tiên được ghi nhận trong sử liệu, mà chỉ có An Giang, Vĩnh Long, Ðịnh Tường. Mặt khác, các thư tịch triều Nguyễn không nhắc đến cái tên Vĩnh An hà, mà chỉ có Long An hà và Tân Châu hà. Thế nhưng, tên phổ biến được địa phương sử dụng là kinh Vĩnh An. Vậy, tên này từ đâu xuất hiện? Ðây là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu thêm.
Vai trò của kinh Vĩnh An
Việc đào kinh Vĩnh An đã hình thành trục giao thông mới huyết mạch, nối liền hai thị tứ sầm uất là Tân Châu và Châu Ðốc, giúp thương mại phát triển mạnh. Kinh Vĩnh An cũng góp phần thúc đẩy công cuộc khẩn hoang. Những vùng đất được phù sa bồi đắp trở nên phì nhiêu, hình thành làng mạc trù phú như Long Phú, Phú Vĩnh, Châu Phong… thu hút cư dân về sinh sống.
Tuy nhiên, vai trò chiến lược của kinh Vĩnh An là quân sự:
- Rút ngắn đường hành quân: Hình thành tuyến đường thủy thứ hai từ sông Tiền sang sông Hậu, không cần phải đi qua sông Vàm Nao vốn cách trở, nhờ vậy rút ngắn lộ trình và thời gian hành quân, kịp thời ứng cứu khi có biến.
- Liên kết các địa điểm quan trọng về chánh trị và quân sự: Ðiểm đầu kinh Vĩnh An có bảo Tân Châu và bảo An Lạc là hai đồn binh, ngoài ra đây cũng là lỵ sở huyện Ðông Xuyên - một trung tâm hành chánh cấp huyện. Ðiểm cuối kinh Vĩnh An có thủ Châu Giang cũng là một đồn binh quan trọng, đối diện bên kia sông Hậu là thành Châu Ðốc - tỉnh lỵ tỉnh An Giang. Như vậy, kinh Vĩnh An rõ ràng có vị thế địa chính trị rất quan trọng, có khả năng kết nối các địa điểm xung yếu về chánh trị và quân sự.
- Nối liền kinh Vĩnh Tế: Từ bảo Tân Châu bên sông Tiền, quân đội theo kinh Vĩnh An đến bảo Châu Giang, thông ra sông Hậu. Từ thành Châu Ðốc, quân đội tiếp tục theo kinh Vĩnh Tế ra Hà Tiên. Như vậy rõ ràng, triều Nguyễn có chủ ý thiết kế tuyến đường thủy kết nối nhau nhằm kịp thời liên lạc và hỗ trợ khi chiến tranh xảy ra.
Người Pháp sau đó cũng đánh giá cao vai trò của kinh Vĩnh An. Trong “Nam Kỳ và cư dân: Các tỉnh miền Tây”, có nhận định: “Kênh Vĩnh An tiếp nối kênh Vĩnh Tế và nối sông Ba Thắc với sông Me Kông”. Còn “Chuyên khảo về tỉnh Châu Ðốc” cho rằng: “Ðây là một con đường sông rất quan trọng. Con kênh gần như là sự tiếp nối con kênh Vĩnh Tế”.
***
Khi xưa có một bia đá được dựng lên ở Tân Châu, bên bờ Nam kinh Vĩnh An, với nội dung: “Vĩnh An hà - Thiệu Trị đệ ngũ - Kiết nhựt tạo”. Năm 1966, tác giả Nguyễn Văn Kiềm viết quyển “Tân Châu (1870-1964)” còn chụp được hình ảnh tấm bia in vào sách. Tuy nhiên sau đó, không rõ chính xác thời điểm, do sạt lở bờ sông, tấm bia bị cuốn trôi theo dòng nước. Dấu tích còn lại là tên đường Nguyễn Tri Phương ở bờ Nam và Nguyễn Công Nhàn ở bờ Bắc kinh Vĩnh An vẫn còn được sử dụng.
Tuy nhiên, do vị trí đào kinh nên dòng chảy yếu, phù sa ứ đọng. Theo “Ðịa chí An Giang”, sau vài chục năm, ghe xuồng chỉ đi lại thuận tiện vào mùa nước lớn, còn mùa khô khó khăn. Do đó từ năm 1914 đến năm 1918, chính quyền Pháp cho đào con kinh mới, nằm song song và cách kinh Vĩnh An khoảng 3,5km về phía Bắc, người dân gọi là kinh Xáng hay kinh Mới. Khi đó kinh Vĩnh An được gọi là kinh Cũ. Kinh Xáng buổi đầu dài 9,5m, rộng 30m, sâu 6m; do sức nước chảy mạnh, hiện kinh rộng 100m.
Trong tiến trình phát triển của đô thị Tân Châu, dòng chảy yếu của kinh Vĩnh An bộc lộ nhiều vấn đề. Vàm kinh Vĩnh An phía sông Tiền lại thường xảy ra sạt lở. Ðặc biệt vào những năm1990, phố chợ, cửa tiệm, nhà ở bị cuốn trôi xuống dòng nước. Bởi thế vào năm 2009, thị xã Tân Châu cho san lấp đoạn đầu kinh Vĩnh An đi qua nội ô thị xã khoảng 2km. Kinh Vĩnh An đến nay vẫn còn, nhưng sứ mạng kết nối sông Tiền và sông Hậu đã chấm dứt lúc dòng kinh ở tuổi 165 năm.
Bài, ảnh: VĨNH THÔNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Hội Nghiên cứu Đông Dương (2017), “Chuyên khảo về tỉnh Châu Đốc”, Nguyễn Nghị & Nguyễn Thanh Long dịch, NXB Trẻ.
2.J. C. Baurac (2022), “Nam Kỳ và cư dân: Các tỉnh miền Tây”, Huỳnh Ngọc Linh dịch, NXB Tổng hợp TP.HCM.
3.Nguyễn Văn Kiềm (1966), Tân Châu (1870-1964).
4.Nhiều tác giả (2013), “Địa chí An Giang”, Sở Thông tin và Truyền thông An Giang.
5.Quốc sử quán triều Nguyễn (1959), “Đại Nam nhất thống chí: Lục tỉnh Nam Việt, Tập Hạ”, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Bộ Quốc gia Giáo dục.
6.Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 6”, Viện Sử học dịch, NXB Giáo dục.
7.Sơn Nam (2011), “Lịch sử khẩn hoang miền Nam”, Bản điện tử.