24/03/2008 - 22:22

TOEFL iBT - Học sao cho hiệu quả ?

Chứng chỉ TOEFL được ví như tấm giấy thông hành về ngôn ngữ để du học sinh “gõ cửa” những trường đại học của Mỹ nói riêng và trên thế giới nói chung. Nhằm giúp bạn đọc có được cái nhìn khái quát về kỳ thi TOEFL iBT và rèn một số kỹ năng thi TOEFL iBT, Báo Cần Thơ xin giới thiệu kinh nghiệm của Thạc sĩ Huỳnh Văn Hiến, Phó trưởng phòng Hợp tác quốc tế, giảng viên Anh văn Trường Đại học Cần Thơ.

Kỳ thi TOEFL (Test of English as a Foreign Language) do Viện ETS (Educational Testing Service), Hoa Kỳ, tổ chức trên khắp thế giới. TOEFL iBT (Internet- Based Test) là dạng thi TOEFL hiện đại nhất mà các nước, trong đó có Việt Nam, đang áp dụng. Toàn bộ quá trình làm bài cũng như chấm bài đều qua mạng Internet.

Kỳ thi TOEFL iBT gồm 4 môn: Reading (Đọc), Listening (Nghe), Speaking (Nói), Writing (Viết).

* Môn Đọc

Đề thi có từ 3 đến 5 bài đọc, mỗi bài khoảng 700 từ, với nhiều dạng câu hỏi khác nhau, phổ biến nhất là: xác định ý chính của bài văn, ý chính của các đoạn văn; tìm thông tin cụ thể trong bài đọc; điền thêm từ, câu vào bài đọc; sắp xếp lại ý chính; chọn cách diễn đạt khác về cùng một vấn đề... Để đáp ứng những yêu cầu đó, thí sinh phải nắm ý chính của bài.

Bạn cần nhớ rằng người phương Tây thường viết văn theo lối diễn dịch, trên cả 2 cấp độ: toàn bộ văn bản và trong từng đoạn văn. Vì vậy, trong bài đọc, thông thường, đoạn văn đầu tiên là đoạn văn cho biết ý chính của bài. Các đoạn văn tiếp theo sẽ khai triển những ý chính đó. Ở cấp độ đoạn văn, câu chủ đoạn thường được viết trước, sau đó là các ý phụ nhằm làm rõ ý chính. Vì vậy, bạn nên rèn kỹ năng dự đoán, suy luận để tìm ra ý chính của đoạn văn, bài văn. Chẳng hạn, khi đọc câu: “Một số người mắc phải chứng lo âu quá đáng”, bạn hãy suy luận: thế nào là lo âu quá đáng? những ai thường mắc phải hội chứng này? hội chứng này biểu hiện ra sao? cách trị liệu?... Những dự đoán có thể đúng, có thể sai nhưng sẽ giúp bạn đọc và hiểu văn bản một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn.

 

Trong quá trình đọc, tìm được ý chính nào, bạn nên ghi ngay vào giấy nháp, không cần câu nệ ghi thành câu, thành cụm từ... Cách ghi dễ nhất là ghi đúng thứ tự thông tin xuất hiện trong bài. Những ghi chép này sẽ giúp bạn giải quyết nhanh hơn những yêu cầu của các câu hỏi đặt ra.

* Môn Nghe

Đề thi TOEFL iBT thường có từ 6 đến 9 bài nghe. Đó có thể là những bài hội thoại hoặc những bài giảng trong các trường đại học Mỹ về tất cả các mảng đề tài. Các câu hỏi trong đề thi môn nghe thường hỏi ý chính, hỏi những chi tiết trong bài để kiểm tra khả năng ghi chú và khả năng nhớ của thí sinh; cũng có thể có những câu hỏi suy luận.

Dù ở dạng nào thì thường ngay đoạn mở đầu, người nói sẽ thông báo cho chúng ta biết họ sẽ nói về vấn đề gì, mục tiêu khi bàn bạc vấn đề đó; thậm chí, cả những nội dung chính của toàn bộ bài nói. Ví dụ: một bài giảng của giáo sư được mở đầu: “Xin chào các bạn, hôm nay, chúng ta sẽ bàn tiếp về sự tiến hóa từ vượn sang người. Mục tiêu của bài giảng là nhằm chuẩn bị cho kỳ thi sắp tới. Sự tiến hóa từ vượn sang người bao gồm ...”. Bạn hãy cố gắng nghe và ghi lại những ý chính của phần này. Cách ghi hữu hiệu nhất là chừa khoảng trống giữa những ý chính để ghi các ý phụ bổ trợ bởi bài nói sẽ được khai triển theo dàn ý đó.

Ở từng đoạn, người nói sẽ phân tích ý chính, giải thích từ mới (nếu có), cho một số ví dụ cụ thể... Khi nghe những cụm từ: for example, for instance (ví dụ như...); that is, that means (điều đó có nghĩa là...); in other words (nói cách khác)... thì bạn nên tập trung nghe và ghi lại những gì được diễn giải sau đó.

* Môn Nói

Phần thi nói gồm 6 câu hỏi:

- Câu 1 và câu 2: ở mỗi câu thí sinh có 15 giây chuẩn bị và 45 giây để nói. Ở cả 2 câu hỏi này, thí sinh sẽ phải trình bày ý kiến cá nhân của mình về một vấn đề nào đó. Câu 2 khác câu 1 ở chỗ nó đưa ra 2 yếu tố để thí sinh chọn lựa. Chẳng hạn dạng câu hỏi 1: “Ai là người mà bạn ngưỡng mộ nhất, tại sao?”; dạng câu hỏi 2: “Bạn thích học cao học trong nước của bạn hay đi ra nước ngoài, vì sao?”.

Khi bắt đầu nói, bạn phải trình bày ngay ý kiến của mình và lý giải về ý kiến đó bằng những lập luận, những ví dụ cụ thể. Bạn nên nhớ điều quan trọng không phải là bạn chọn lựa ai, cái gì... mà điều quan trọng là lập luận thật vững để bảo vệ ý kiến của mình. Và để chuẩn bị tốt cho câu hỏi số 1, số 2, thí sinh phải tập thói quen động não với bất kỳ vấn đề nào mà bạn gặp phải bởi trong thực tế lúc nào chúng ta cũng có lý do cho một sự lựa chọn nào đó.

- Câu 3 và câu 4, mỗi câu thí sinh có 30 giây để chuẩn bị và 60 giây để nói. Ở phần thi này, thí sinh được cho 1 bài đọc và 1 bài nghe rồi được yêu cầu trình bày lại những gì mình đã nghe được, đọc được. Thường bài đọc và bài nghe đề cập đến những vấn đề liên quan đến cuộc sống của sinh viên, những vấn đề học thuật. Ví dụ: ở câu 3, thí sinh nhận được bài đọc là thông điệp về việc tăng học phí; sau đó nội dung bài nghe là cuộc hội thoại giữa 2 sinh viên, người thì ủng hộ chủ trương tăng học phí, người thì phản đối, với những lý do cụ thể. Nhiệm vụ của thí sinh là nắm bắt những ý chính và diễn đạt lại một cách logic, mạch lạc theo kiểu: “Anh A đồng ý với việc tăng học phí vì những lý do... Chị B không đồng ý về việc tăng học phí vì những lý do...” chứ không phải trình bày lại cuộc đối thoại.

Ở phần thi này, thí sinh phải vận dụng cả kỹ năng đọc, suy luận, nghe, ghi chép như ở phần thi đọc, viết để làm bài.

- Câu 5 và câu 6, mỗi câu thí sinh có 20 giây để chuẩn bị và 60 giây để nói. Phần này không có bài đọc mà chỉ có bài nghe. Bài nghe ở câu 5 thường là cuộc trao đổi giữa người nam và người nữ theo mô-tuýp: 1 người than thở về rắc rối nào đó; người còn lại đưa ra 2 giải pháp khả thi. Thí sinh phải trình bày lại vấn đề, 2 giải pháp và nêu ý kiến cá nhân của mình về một giải pháp tốt nhất. Bài nghe ở câu 6 thường là bài giảng về một chủ đề nào đó. Thí sinh phải nghe và trình bày lại những vấn đề mà bài nói đề cập đến. Do đó, thí sinh phải vận dụng cả kỹ năng nghe, ghi chép để làm bài.

Ở bất kỳ câu hỏi nào của phần thi Speaking, khi trả lời, bạn nên cố gắng tạo thành đoạn văn nho nhỏ với câu đầu tiên là câu chủ đoạn. Sau đó, đi vào phân tích từng ý chính. Ở mỗi đoạn phân tích ý chính, cần có một vài ý phụ, dẫn chứng ví dụ.

* Môn Viết

Trước hết bạn hãy luyện cho mình kỹ năng đánh máy bằng cả 10 ngón tay để khi vào thi bạn không phải gặp rắc rối đến từ việc gõ máy tính. Môn thi Viết gồm 2 phần:

- Phần 1: thí sinh nhận được bài đọc về 1 mảng đề tài nào đó và nghe giảng về mảng đề tài đó. Sau đó, thí sinh được yêu cầu trình bày lại những gì đã đọc và đã nghe trong 1 bài văn với thời gian viết là 20 phút.

- Phần 2: thí sinh làm 1 bài văn (trong vòng 30 phút) về một vấn đề nào đó, với đầy đủ 3 phần: mở đầu, thân bài, kết luận. Có một số kiểu đề thi nhất định như “Nên... hay không nên...” hoặc kiểu bài trình bày ý kiến cá nhân về một vấn đề nào đó. Nên nhớ ở phần mở đầu đã đề cập đến bao nhiêu vấn đề thì phần thân bài bạn sẽ khai triển bấy nhiêu ý tương ứng.

Ở phần thi Viết và Nói, bạn cần lưu ý không phải viết nhiều, nói nhiều mới hay. Bạn phải nêu được những ý chính và bao giờ mỗi ý chính cũng có vài ba ý phụ để bổ trợ cho nó, tránh nói lấp lửng rồi bỏ. Chẳng thà bạn liệt kê ít ý nhưng phân tích kỹ những ý mà mình liệt kê còn hơn bạn liệt kê nhiều ý nhưng không có khả năng phân tích nó. Điều quan trọng là khả năng lập luận của bạn chứ không phải là những gì bạn nói có cao siêu hay không và ngôn ngữ bạn dùng có phức tạp hay không. Vì vậy, bạn đừng cố tình làm khó mình bằng cách dùng cấu trúc câu phức tạp, những mẫu câu mới, những từ ngữ khó hiểu... Hãy dùng ngôn ngữ dễ hiểu, câu cú đơn giản, những mẫu câu mà bạn biết chắc là mình sử dụng đúng.

HUỲNH VĂN HIẾN

Chia sẻ bài viết