10/11/2025 - 08:48

Tái cấu trúc ngành hàng “tỉ đô” theo hướng bền vững 

Dừa đang tạo sinh kế cho hàng triệu hộ dân nhưng trước những thách thức như hiện nay, việc tái cấu trúc ngành dừa theo hướng bền vững đang là yêu cầu cấp thiết.

Nông dân tỉnh  Vĩnh Long cải tạo vườn dừa.

Tiềm năng nhiều, thách thức lớn

Theo Hiệp hội Dừa Việt Nam, 6 tháng đầu năm 2025, ngành dừa Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu 489 triệu USD, trong đó dừa nguyên trái (dừa khô và dừa tươi) là 216 triệu USD, tăng 40% so với cùng kỳ năm ngoái. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu dừa đạt 1,089 tỉ USD, ngành đặt mục tiêu tăng trưởng 20% trong năm 2025, vươn lên mốc hơn 1,2 tỉ USD. Hiện cả nước có 202.000ha dừa, trong đó có 181.000ha cho thu hoạch, năng suất bình quân 125,6 tạ/ha, sản lượng 2,28 triệu tấn. Định hướng đến năm 2030, diện tích dừa cả nước đạt 195.000-210.000ha, trong đó vùng trọng điểm ĐBSCL khoảng 170.000-175.000ha. Khoảng 30% diện tích được sản xuất theo quy trình GAP hoặc tương đương và có mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu.

Thời gian qua, mặc dù cây dừa thích ứng khá tốt với biến đổi khí hậu, nhưng thực tế sản lượng và chất lượng trái vẫn sụt giảm, sâu bệnh hại gia tăng. Giá dừa nguyên liệu biến động mạnh, đôi lúc tăng đột biến khiến doanh nghiệp chế biến gặp rủi ro khi đã ký hợp đồng xuất khẩu cố định giá. Bên cạnh đó, ngành dừa Việt Nam vẫn yếu ở khâu chế biến sâu và bảo quản dừa tươi uống nước, công nghệ còn mang tính bán thủ công. Trong khi đó, các thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc ngày càng siết tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn thực phẩm, đòi hỏi sản phẩm dừa Việt phải nâng tầm.

Theo ông Huỳnh Khắc Nhu, Tổng Giám đốc Công ty CP Trà Bắc (Trabaco), nguồn nguyên liệu trong nước chưa đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất, khi Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2% diện tích dừa toàn cầu, nhưng lại tạo ra giá trị gia tăng gấp 3 lần nhờ đa dạng sản phẩm và hàm lượng chế biến cao. “Các thành viên trong Cộng đồng Dừa châu Á - Thái Bình Dương đều đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về đồng nhất giống và độ tuổi cây trồng để đảm bảo chất lượng nguyên liệu xuất khẩu. Trong khi đó, tại Việt Nam, phần lớn dừa vẫn trồng theo quy mô hộ gia đình nhỏ lẻ, chỉ 2% số hộ có quy mô từ 5ha trở lên, dẫn đến kỹ thuật thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch còn chênh lệch. Bên cạnh đó, năng suất dừa Việt Nam còn thấp so với các quốc gia trong khu vực. Trung bình, 1ha dừa ở Việt Nam có khoảng 150 cây, đa phần dừa tạp, chỉ đạt 90 trái mỗi cây. Trong khi đó, Malaysia đang hướng tới năng suất 150 trái mỗi cây và mật độ trồng 200-250 cây/ha nhờ áp dụng giống cao sản và kỹ thuật canh tác tiên tiến. Đây là xu hướng mà Việt Nam cần nhanh chóng thích ứng nếu muốn đưa ngành dừa đạt hiệu quả kinh tế cao” - ông Nhu nhấn mạnh.

Chế biến mật hoa dừa thành các sản phẩm có giá trị kinh tế cao tại Vĩnh Long.

Nâng cao giá trị cây dừa

Mới đây, tại Diễn đàn “Truyền thông quản lý sức khỏe cây dừa Việt Nam đáp ứng yêu cầu sản xuất gắn với người tiêu dùng”, ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cho biết ngành dừa còn rất nhiều dư địa phát triển, đặc biệt trong việc nâng cao giá trị gia tăng, đa dạng hóa sản phẩm và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất. Do đó, cần phát triển giống dừa chất lượng cao, phù hợp cả tiêu dùng tươi và chế biến; có năng suất tốt, khả năng thích nghi với biến đổi khí hậu, phục vụ định hướng mở rộng vùng nguyên liệu. Chú trọng đổi mới công nghệ chế biến, bảo quản và sau thu hoạch, nhằm gia tăng giá trị sâu cho sản phẩm dừa, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, ngành dừa không chỉ xuất khẩu các sản phẩm hữu hình, mà cần hướng tới “sản phẩm không khói” như du lịch vườn dừa hay “sản phẩm trên trời” như tín chỉ carbon, những giá trị mới từ chính khả năng hấp thu CO2 vượt trội của cây dừa.

Cũng tại diễn đàn, lãnh đạo các cơ quan quản lý, viện nghiên cứu, doanh nghiệp, hợp tác xã, nhà vườn cũng nêu thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng vùng nguyên liệu dừa, hướng tới mô hình canh tác thông minh, giảm phụ thuộc hóa chất, tăng cường biện pháp sinh học; ứng dụng công nghệ tiên tiến trong bảo quản và chế biến đa dạng hóa sản phẩm từ dừa; phát triển thị trường nội địa gắn với tiêu chuẩn quốc tế; các nghiên cứu mới về chọn tạo giống, bảo tồn nguồn gen quý, cùng kỹ thuật canh tác thích ứng biến đổi khí hậu; chiến lược phát triển thương hiệu dừa gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu và đầu tư hạ tầng chế biến…

Theo bà Lê Thanh Trúc, HTX Nông nghiệp Bền vững Lạc Địa, đơn vị đang hướng đến mục tiêu cải tạo và gia tăng giá trị cho những vùng đất bị ảnh hưởng nặng bởi biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn. Những nơi đất cằn khô, không còn phù hợp trồng lúa, người dân có thể chuyển đổi sang trồng dừa, loại cây trồng có khả năng thích ứng cao với điều kiện khắc nghiệt và dễ chăm sóc. “Ngay cả khi cây dừa không cho trái, cây vẫn ra hoa và có thể khai thác mật hoa để chế biến thành các sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Đây được xem là hướng đi mới giúp người dân tăng thu nhập bền vững mà vẫn tận dụng được lợi thế của vùng đất khó. Trong số các sản phẩm từ mật hoa dừa, rượu mật hoa dừa đang nhận được sự quan tâm và đón nhận tích cực từ người tiêu dùng, mở ra tiềm năng phát triển cho mô hình canh tác và chế biến dừa thích ứng với biến đổi khí hậu” - bà Trúc chia sẻ.

Theo ông Phạm Hồng Dương, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Xuất nhập khẩu Bến Tre (Betrimex), nhu cầu thị trường đối với dừa hữu cơ ngày càng tăng, đòi hỏi địa phương cần có các chương trình đồng bộ nhằm bảo vệ và phát triển vùng nguyên liệu này, từ khâu truy xuất nguồn gốc, chăm sóc cây trồng, phòng trừ sâu bệnh bằng biện pháp sinh học đến sử dụng thiên địch thay thế thuốc bảo vệ thực vật hóa học. “Chỉ cần để sâu bệnh phát sinh trong 1 tháng thôi, chúng ta có thể mất đi sản lượng của cả 1 năm sau” - ông Phạm Hồng Dương nói.

Ông Châu Hữu Trị, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Vĩnh Long, đánh giá: Từ giá trị kinh tế đến giá trị sinh thái, cây dừa đã được công nhận là cây trồng chủ lực quốc gia, với hơn 183 doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi giá trị. Do đó, Trung ương cần xây dựng chính sách cụ thể hơn cho ngành dừa, trong đó cần quy hoạch tổng thể, đặc biệt với 24.000ha dừa hữu cơ, cần được tái chứng nhận trong tương lai, đồng thời đánh giá rõ những khó khăn thực tế trong quá trình triển khai. Bên cạnh đó, cần tăng cường hơn nữa liên kết “4 nhà” - Nhà nước, nhà khoa học, nhà trường và nông dân, bởi chuỗi liên kết hiện nay còn lỏng lẻo, cần xây dựng cơ chế pháp lý rõ ràng để ràng buộc trách nhiệm trong hợp tác. “90% công nghệ chế biến dừa, Việt Nam hoàn toàn có thể tự làm chủ. Điều quan trọng là phải tiếp tục đổi mới công nghệ, tạo ra sự khác biệt và khai thác đa giá trị, nếu không sẽ tự tụt lại phía sau” - ông Trị nhấn mạnh. 

Bài, ảnh: BÌNH NGUYÊN

Chia sẻ bài viết