Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta có sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của đại đoàn kết toàn dân tộc và sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động của Đảng, đã đem lại thắng lợi cho công cuộc xây dựng và đổi mới ở nước ta. Với sự vận dụng và phát triển lý luận được coi là công cụ nền tảng để xây dựng Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đồng thời giải quyết kịp thời những vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
Sự ra đời của tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tất yếu khách quan đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là “Đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, đoàn kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay định cư ở nước ngoài thành một khối vững chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu chung và những lợi ích căn bản”.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, đoàn kết là một nhu cầu khách quan và là nội dung quan trọng, xuyên suốt trong đường lối, chiến lược của Đảng, nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xuất phát từ mỗi cá nhân trong cộng đồng, vì lợi ích tương đồng mà có xu hướng tập hợp lại, tạo thành một khối, phát huy và cộng hưởng thế mạnh của từng cá nhân, tạo nên sức mạnh cộng đồng để cùng đạt mục tiêu chung. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ xưa đến nay. Vì vậy, tư tưởng đại đoàn kết của gười đực ra đời từ 3 lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần đoàn kết của cộng đồng dân tộc Việt Nam
Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Nó là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam.
Thứ hai, từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lê-nin cho rằng “Sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân với nông dân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”.
Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Thứ ba, đúc kết từ những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng đại đoàn kết còn xuất phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước ngòai của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh.
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại người cũng đã thấy được “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” là nền tảng của sự thành công. Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành dân chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công nông binh đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng.
Thực trạng về vấn đề đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam”.
Lịch sử cho thấy, các thế lực thù địch, phản động từ trước đến nay chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt khác, có những hạn chế, khuyết điểm bên trong nếu không sớm được khắc phục có thể ảnh hưởng trực tiếp đến khối đại đoàn kết toàndân tộc và nguy hiểm hơn là khi bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng chống phá...
Ngay từ những năm 2020 khi đại dịch COVID-19 bùn phát nhà nước ta đã đưa các lực lượng quân đội hỗ trợ nhất là các tỉnh phía Nam và trên địa bàn TP Hồ Chí Minh trên mạng xã hội lập tức xuất hiện những bài viết xuyên tạc, trắng trợn vu cáo Đảng, Nhà nước sử dụng quân đội để trấn áp nhân dân miền Nam. Họ còn sử dụng một số tổ chức phản động đã cắt ghép nhiều hình ảnh hoạt động của bộ đội ta.
Thực tế cho thấy, hiện nay các thế lực thù địch, phản động ngày càng quyết liệt hơn với các âm mưu thâm độc và tinh vi hơn trong phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi chúng nhận thấy rõ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, muốn phá hoại cách mạng Việt Nam thì phải làm tan rã sức mạnh to lớn đó. Theo đó, âm mưu, thủ đoạn gây chia rẽ hiện nay của các thế lực thù địch, phản động chủ yếu là tuyên truyền, xuyên tạc, bôi đen thành tựu thực hiện đường lối, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta nhầm làm mất lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng đất nước và với Đảng cộng sản Việt Nam. Nhất là gần đây, nước ta có thay đổi về nhân sự trong hệ thống chính trị thì trên các trang mạng trong đó có trang yuotube xuất một số bình luận xuyên tạc, nói xấu nhầm lôi kéo người dân để làm cho dân mất lòng tin của dân với đảng và nhà nước.
Chúng triệt để lợi dụng những vấn đề bức xúc, những khó khăn trong đời sống nhân dân để kích động chống đối, hình thành những điểm nóng gây chia rẽ từ bên. Chúng lợi dụng hội nhập quốc tế để làm “biến dạng” các giá trị văn hóa truyền thống; lợi dụng các vấn đề dân chủ, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, các vấn đề lịch sử... để kích động, chia rẽ đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân; giữa các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đáng chú ý, chúng tập trung vào phá hoại mối đoàn kết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; nhân dân với các cấp chính quyền và lực lượng vũ trang; mối quan hệ giữa quân đội và công an... Cùng với chống phá trên các địa bàn chiến lược như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ hiện nay, chúng đẩy mạnh chống phá gây chia rẽ, mất đoàn kết ở các khu công nghiệp, trung tâm kinh tế, chính trị các địa phương. Internet, mạng xã hội đã và đang được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng với những thủ đoạn mới rất tinh vi, xảo quyệt để chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Với những thành tựu hơn 30 năm đổi mới đã tạo cho đất nước Việt Nam có sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước, tình hình kinh tế, xã hội chính trị đã dần được phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều thách thức: diễn biến hòa bình, bạo loạn, tình hình suy thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, thiên tai, dịch bệnh... Tình hình và bối cảnh như trên sẽ tạo ra những thời cơ và thách thức đan xen đối với sự phát triển đất nước như đã trình bày từ những thực trạng trên. Vì vậy, vấn đề đại đoàn kết cần phải hết sức quan tâm và chú trọng đồng thời cần phải vận dụng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, phù hợp với tình hình hiện nay để đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên giành thắng lợi, là vấn đề đề chiến lược, là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu, có ý nghĩa quyết định đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, tư tường đại đoàn kết Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng và phát triển lên một tầm cao mới.
Quán triệt tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thông quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn coi đại đoàn kết trong xây dựng xậy và phát triển đất nước cụ thể như sau:
Một, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngủ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Giữa ngày nắng nóng vào những tháng 2-3 năm 2024, những chiếc xe bơm nước, xe chở nước chữa cháy cùng nhiều chiếc xe bồn chứa nước của các cá nhân, tổ chức được huy động đến mọi lúc mọi nơi của các tỉnh phía Nam. Tất cả chuẩn bị cho hành trình đến với Nhân dân vùng bị ảnh hưởng bởi hạn mặn. Hành trang mang theo là nước ngọt dùng trong sinh hoạt hằng ngày, nước uống đóng chai, để chia sẻ khó khăn với người dân.
Đoàn kết, chung sức, chung lòng vượt qua khó khăn. Chương trình “Nghĩa tình ngày hạn mặn” của các tỉnh phía Nam nhất là khu vực ĐBSCL sẽ tiếp tục được thực hiện cho đến khi kết thúc đợt hạn mặn.
Thực hiện theo lời Người dạy “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”. Vì thế, để giúp người dân vượt qua thời gian hạn mặn là cần có sự chung tay đồng lòng của cả hệ thống chính trị của từng đại phương với một quyết tâm cao, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Với tinh thần chống thiên tai như chống giặc rất đông các lực lượng quân đội, công an; lực lượng đoàn viên thanh niên cùng chung tay giúp sức.
Hai, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thông nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
Trong thực tế, Đảng và Nhà nước đã và đang xây dựng đất nước dân chủ, công bằng xóa dần khoản cách giàu nghèo giữa các vùng miền, cụ thể nhiều chương trình, nhiều mục tiêu Quốc gia đã được Chính phủ ban hành như Quyết định 1722-QĐ/TTG ngày 2/9/2016 về giảm nghèo bền vững là một minh chứng cụ thể.
Ba, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn liền với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước.
Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định chỉ có những người với “bàn tay sạch”, “tấm lòng sạch” mới có đủ dũng khí để dọn sạch tàn dư của những thói hư tật xấu đã len lỏi vào một bộ phận cán bộ của chúng ta.
Tham nhũng, tiêu cực là những hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với nhà nước và quyền lực trong xã hội phân chia giai cấp. Nó tồn tại ở mọi quốc gia, hiện diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển. Ở Việt Nam, trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng, đấu tranh phòng, chống tham tham nhũng, tiêu cực được xác định là một trụ cột trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Mới đây, trong cuốn sách Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một việc làm cần thiết, tất yếu, là một xu thế không thể đảo ngược”.

Hiện nay, các tỉnh trên cả nước đang tiến tới Chương trình sản phẩm OCOP, đây là một Chương trình mới nên mỗi địa phương cần chung tay thực hiện từ các tổ chức chính trị xã hội đến người dân. Vì vậy, Lãnh đạo các tỉnh cần tổ chức các buổi tập huấn, các học viên được hướng dẫn xây dựng sản phẩm OCOP (mỗi xã 1 sản phẩm); xây dựng và phát triển các mô hình kinh tế tập thể theo chuỗi liên kết gắn với tiêu thụ sản phẩm; ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp; hướng dẫn xây dựng nhãn hiệu sản phẩm; kỹ thuật trồng, chăm sóc và phòng trừ dịch bệnh trên một số cây trồng, vật nuôi; giới thiệu một số hệ thống tưới trong nông nghiệp công nghệ cao; kiến thức ứng dụng khoa học-kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; tư vấn tuyển sinh, hướng nghiệp, dạy nghề, tạo việc làm cho nông dân...
Thông qua lớp tập huấn nhằm nâng cao kiến thức cho cán bộ, hội viên, nông dân về xây dựng và phát triển các mô hình kinh tế-xã hội, góp phần tăng hiệu quả sản xuất, giá trị sản phẩm, giúp cải thiện đời sống
Bốn, thực hiện nhất quán đường lối đoàn kết quốc tế độc lập tự chủ, hòa bình, trong di sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam và nhân loại, đoàn kết, hợp tác quốc tế là một trong những tư tưởng cốt lõi của Người. Đó là kim chỉ nam, định hướng quan trọng trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trước đây cũng như hiện nay.
Mục tiêu cơ bản, lâu dài trong nhận thức và vận dụng quan điểm về đối tác, đối tượng là nhằm không ngừng tăng cường đoàn kết, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với bè bạn quốc tế, khai thác mặt đối tác, ngăn ngừa, hạn chế, thu hẹp mặt đối tượng. Đấu tranh phê phán, bác bỏ quan điểm, tư tưởng nhận thức máy móc, khô cứng, khi xem đối tác chỉ là để hợp tác và coi đối tượng chỉ là để cô lập, đấu tranh. Qua đó, tăng mặt đồng thuận, giảm thiểu bất đồng trong quan hệ quốc tế nhằm mục tiêu vì lợi ích quốc gia, dân tộc, đưa nước ta không ngừng phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, với phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, phát triển.
Kết luận
Những kết quả đạt được trong việc tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần nâng tầm cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhất là tư tưởng về đại đoàn kết.
LÊ THỊ TRÚC MAI
(Trường THPT Thạnh Tân)