Hỏi: Năm 2006, tôi đã nhận chuyển nhượng một phần đất diện tích 100m2 đất thổ cư. Khi đó, giữa tôi và người sang đất có làm giấy tay về việc sang nhượng này và có lập biên nhận giao nhận tiền. Năm 2011, tôi tiến hành làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định thì người chủ đất cũ không chịu ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng. Trước sự việc trên, tôi phải làm thế nào?
Nguyễn Hồng Hạnh (quận Ô Môn, TP Cần Thơ)
Về vấn đề này, Luật sư Huỳnh Minh Triết, Đoàn Luật sư TP Cần Thơ, cho biết: Theo quy định tại Điều 689 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được thực hiện thông qua hợp đồng. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.
Như vậy, việc chị chỉ lập hợp đồng viết tay khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không phù hợp với quy định của pháp luật về hình thức hợp đồng. Do đó, chị cũng không thể thực hiện thủ tục sang tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Chị cần liên hệ với bên chuyển nhượng để yêu cầu thực hiện hợp đồng chuyển nhượng có xác nhận của cơ quan công chứng theo quy định của pháp luật. Trường hợp hai bên không thể làm thủ tục công chứng hợp đồng thì theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Dân sự 2005: “Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.
Nếu bên chuyển nhượng không đồng ý ký kết hợp đồng thì chị có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, Tòa án sẽ ra quyết định buộc hai bên cùng thực hiện lại các thủ tục theo đúng quy định về hình thức của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất; nếu một trong hai bên cố tình không làm các thủ tục đó thì Tòa án tuyên bố giao dịch này vô hiệu và bên cố tình không làm lại các thủ tục đó là bên có lỗi.
Trường hợp Tòa án tuyên giao dịch này là vô hiệu, căn cứ quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự 2005, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
NG.B (thực hiện)