16/04/2012 - 21:09

Phát triển giáo dục đại học ở ĐBSCL

Nhìn từ góc độ chất lượng

* Điều tra: Thanh Ngọc

Bài 2: THỪA LƯỢNG, THIẾU CHẤT

Nhiều năm trở lại đây, ĐBSCL phát triển mạnh về hệ thống trường ĐH tỉnh, cũng như ĐH ngoài công lập. Nếu như 10 năm trước, vùng ĐBSCL có 1 trường ĐH ngoài công lập (ĐH Cửu Long), thì nay vùng đã có thêm ĐH Tây Đô, ĐH Võ Trường Toản... Đó là chưa kể đến hệ thống trường ĐH trực thuộc các địa phương. Qua đó đã góp phần điểm thêm màu sắc cho bức tranh giáo dục đồng bằng, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Thế nhưng làm thế nào để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cho vùng vẫn là bài toán khó đối với lãnh đạo các trường...

* “Lép” vị thế, khó cạnh tranh

 Cần có cơ chế chính sách thu hút đối với các ngành nghề khó tuyển sinh (nông nghiệp, kỹ thuật công nghệ) ở các trường ĐH. Trong ảnh: Sinh viên Trường ĐH An Giang đang thực hành trên ruộng lúa. Ảnh: B.Ng
 

Có thể khẳng định 10 trường ĐH (trực thuộc tỉnh và dân lập) ở ĐBSCL hiện nay có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng. TS Ngô Tấn Lực, Hiệu trưởng Trường ĐH Tiền Giang, cho biết: “Từ khi nâng cấp thành trường ĐH (năm 2005), hằng năm, trường cung cấp hàng ngàn cán bộ có trình độ cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội cho địa phương nói riêng, vùng ĐBSCL nói chung”. Chỉ riêng Trường ĐH Tiền Giang đã cung cấp hàng ngàn cán bộ. Con số này sẽ nhân lên hàng chục ngàn nếu tính tất cả số lượng sinh viên tốt nghiệp hằng năm ở tất cả các trường đại học ở ĐBSCL (trừ ĐH Cần Thơ, ĐH Y Dược Cần Thơ). Thành quả trên thể hiện sự quan tâm đầu tư của địa phương, Trung ương và các nhà đầu tư xây dựng các trường ngoài công lập. Chẳng hạn, kể từ khi nâng cấp lên ĐH, 5 năm qua (2006-2010), Trường ĐH Tiền Giang được Trung ương và địa phương đầu tư 334 tỉ đồng. Riêng năm 2012, dự kiến kinh phí đầu tư cho trường khoảng 110 tỉ đồng; Đối với Trường ĐH An Giang được đầu tư xây dựng khu cơ sở vật chất mới, với kinh phí khoảng 700 tỉ đồng...

Đối với hệ thống các trường ngoài công lập, Trường ĐH Tây Đô được xem là trường có tốc độ phát triển khá nhanh. Chỉ hơn 6 năm thành lập, cơ sở vật chất của trường khang trang hiện đại, với hệ thống phòng học chữ U, chữ O và dãy phòng thí nghiệm điện- điện tử, vật lý, hóa dược- dược lý... đáp ứng nhu cầu học tập, giảng dạy cho tất cả cán bộ, sinh viên. Đầu tư không kém gì so với ĐH Tây Đô, ĐH Võ Trường Toản sau hơn 4 năm thành lập, trường đã tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành hiện đại, với khu giảng đường, phòng thực hành vi tính, ký túc xá 8.000 chỗ được phủ sóng wifi;...

Không thể phủ nhận sự quan tâm đầu tư của Trung ương và địa phương đến các trường ĐH “tỉnh” và ĐH ngoài công lập, thế nhưng mức đầu tư vẫn chưa tương xứng với vị thế của các trường. TS Ngô Tấn Lực băn khoăn: “Năm 2012, dù tổng mức đầu tư cho trường có tăng so với năm 2011, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu hoạt động của trường. Từ nguồn kinh phí đó, trường phải chi 70% cho con người, 30% còn lại cho các hoạt động khác nên trường phải “gói ghém” lắm mới chi cho các hoạt động hiệu quả nhất. Ngoài ra, trường còn phải huy động thêm từ nguồn xã hội hóa để chi cho các hoạt động của trường như tạo điều kiện cán bộ đi học nâng cao trình độ chuyên môn”. Đây không chỉ là nhận diện cái khó của Trường ĐH Tiền Giang mà là “cảnh” chung của ĐH “tỉnh”. Ở ĐH An Giang, do kinh phí được tỉnh cấp nên ngoài chi thường xuyên, trường rất khó có nguồn để đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ các ngành nghề kỹ thuật cao, hoạt động nghiên cứu khoa học...

ĐH “tỉnh” đã khó, ĐH ngoài công lập càng khó hơn, bởi trường tư hầu như tự chủ hoàn toàn về kinh phí hoạt động. Theo TS Dương Đăng Khoa, Hiệu trưởng Trường ĐH Võ Trường Toản, trường chú trọng đào tạo kỹ năng thực hành, nhất là quy định chuẩn đầu ra đối với sinh viên. Nếu tốt nghiệp đại học, sinh viên phải đạt trình độ TOIEC 450, TOIEC 450 (bậc cao đẳng), TOIEC 350 (bậc trung cấp). Để đạt được chuẩn này, Trường đưa chương trình dạy tiếng Anh quốc tế (TOIEC) vào chương trình đào tạo chính khóa, thay vì phải học tiếng Anh căn bản. Những sinh viên khóa mới sẽ được kiểm tra ngoại ngữ đầu vào và tổ chức IIG Quốc tế kiểm tra, cấp bằng cho sinh viên. Tuy nhiên, để làm được điều này, trường phải tốn khoản chi phí khá lớn đầu tư hệ thống trang thiết bị thực hành, thực tập. Còn theo ông Nguyễn Phước Quý Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Trường ĐH Tây Đô, để nâng cao chất lượng đào tạo, trường phải đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bổ sung trang thiết bị thực hành nhưng kinh phí là trường tự chủ hoàn toàn, phải cân nhắc đầu tư thật kỹ, có hiệu quả, nhất là chủ động đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị để đảm bảo chất lượng đào tạo theo Thông tư 57 của Bộ GD&ĐT.

Theo nhận định của lãnh đạo các trường, kinh phí đầu tư hằng năm của địa phương, cá nhân đơn vị vẫn chưa đủ sức đẩy để tất cả hoạt động của trường trơn tru. Bởi các khoản phí đều có chỗ chi, nên tất yếu công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, hoạt động nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế ít nhiều khó khăn, ảnh hưởng chất lượng đào tạo.

* Vẫn chưa đáp ứng yêu cầu

Trường ĐH An Giang mặc dù được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất “hoành tráng” nhưng trang thiết bị bên trong vẫn còn thiếu. Được thành lập muộn hơn so với các trường đại học khác trong vùng nhưng ĐH Trà Vinh được đầu tư khá nhiều về cơ sở vật chất. Tuy nhiên, cơ sở vật chất, trang thiết bị vẫn theo không kịp với “tốc độ” mở ngành, nghề của trường nên thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn.... ĐH tỉnh đã vậy, ĐH ngoài công lập lại còn khó hơn. Một số trường cố gắng tạo một cái vỏ “hoành tráng” từ ngoài nhìn vào nhưng bên trong vẫn thiếu thốn nhiều trang thiết bị hiện đại xứng tầm...

Ngoài ra, cái khó chung của các trường ĐH tỉnh, ĐH ngoài công lập là đội ngũ cán bộ giảng viên vẫn chưa đáp ứng yêu cầu so với quy mô đào tạo. Qua thống kê của Bộ GD&ĐT, so với năm 1987, trong khi quy mô đào tạo ở các trường tăng gần gấp 13 lần, nhưng cán bộ giảng viên chỉ tăng hơn 3 lần. ĐBSCL là một trong số vùng, miền tỷ lệ giảng viên/ sinh viên thấp nhất cả nước. Nhất là với các trường ĐH mới thành lập gần đây. Còn nhớ cách đây 2 năm, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến kiểm tra công tác đào tạo ở một số trường ĐH trên địa bàn TP Cần Thơ đã chứng minh thực trạng này. Theo lãnh đạo một số Trường ĐH ngoài công lập, do mới thành lập một vài năm gần đây, so với tiêu chí của Bộ GD&ĐT thì đội ngũ cán bộ giảng viên của trường vẫn chưa đảm bảo theo yêu cầu. Theo nhận định của lãnh đạo các trường ĐH “tỉnh”, mặc dù có chính sách ưu đãi để thu hút nguồn cán bộ giỏi nhưng vẫn chưa đủ sức để thu hút họ, bởi “lực hút” từ các trường ĐH vùng, ĐH ngoài công lập khá mạnh. Trong khi đó chính sách ưu đãi từ địa phương vẫn chưa đủ thuyết phục người giỏi về công tác.

Từ những khó khăn trên, hệ lụy là đào tạo vẫn chưa đáp ứng yêu cầu xã hội. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, đến cuối năm 2011, các cơ sở giáo dục đại học toàn vùng có 56 ngành đào tạo từ bậc trung cấp đến đại học, tuyển 26.000 sinh viên mới, nâng tổng số sinh viên hiện nay lên 234.754 người, tăng 13% so với năm 2010. Đặc biệt, ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất cả nước, nông nghiệp và thủy sản là nghề chính của vùng nhưng sinh viên theo học những ngành nông-lâm-ngư nghiệp tại các trường ĐH trong vùng khá thấp. Theo thống kê sơ bộ từ các trường ĐH, trong tổng số gần 70.000 sinh viên đang theo học thì chỉ có 10,1% sinh viên ngành nông-lâm-ngư nghiệp; bậc cao đẳng chỉ chiếm 4,7% trong tổng số trên 48.000 sinh viên. Rõ ràng sự chênh lệch về nguồn cung lao động trong cơ cấu ngành nghề giữa các ngành và các cấp ở các trường ĐH, Cao đẳng trong khu vực đang “nới” rộng. Đáng lưu ý, “sản phẩm” đào tạo từ các trường ĐH vẫn chưa thực sự đủ thuyết phục với nhà tuyển dụng lao động.

Theo ông Nguyễn Quốc Vững, Giám đốc Trung tâm Giới thiệu việc làm Thanh niên TP Cần Thơ, các đơn vị sử dụng lao động thường than phiền các học sinh, sinh viên không chỉ hạn chế về chuyên môn mà còn hạn chế về kỹ năng sống, giao tiếp,... Nhất là học sinh, sinh viên tốt nghiệp từ trường ĐH ngoài công lập, có nhiều doanh nghiệp từ chối thẳng khi trung tâm giới thiệu vào làm việc. Bởi thực tế đã có nhiều sinh viên tốt nghiệp hệ ngoài công lập vẫn còn “độ vênh” so với các sinh viên tốt nghiệp từ các trường công lập. TS Nguyễn Minh Châu, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam, nói: “Điểm hạn chế của sinh viên nói chung, sinh viên ngành nông nghiệp là thiếu kỹ năng thực hành, lẫn kỹ năng xã hội. Điều này khiến các nhà sử dụng lao động thiếu mặn mà khi tuyển dụng các em”. Phát biểu tại “Hội thảo Phát triển giáo dục và đào tạo ở ĐBSCL” vào tháng 11-2011 tại TP Cần Thơ, ông Võ Hùng Dũng, Giám đốc VCCI- Chi nhánh Cần Thơ cho rằng mức độ hài lòng của các doanh nghiệp đối với lao động thì lao động ở ĐBSCL cũng ở mức độ thấp so với bình quân cả nước 70,45%/ 72,81%. Trong khi hiện nay ĐBSCL không thiếu trường đại học, cao đẳng hay dạy nghề nhưng lại thiếu về chất lượng. Còn ông Tăng Hồng, Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân Cơ khí Sông Hậu, TP Cần Thơ thì nói: “Có nhiều sinh viên ra trường vào làm việc tại đây, chúng tôi phải đào tạo lại”.

Một khía cạnh khác khiến không ít cán bộ quản lý cơ sở đào tạo và dư luận quan tâm là tình trạng: Việc tăng quy mô và số lượng các trường đại học mà không có biện pháp giám sát chất lượng hiệu quả, dẫn tới tình trạng không kiểm soát được chất lượng về giáo dục đại học. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận thừa nhận: “Vẫn còn tình trạng sinh viên ra trường không có việc làm, nhiều ngành quan trọng khó tuyển những sinh viên có chất lượng, chất lượng bằng cấp giữa hệ đào tạo công lập và ngoài công lập chưa tương đương...”. Bằng chứng là dù các trường đều nêu được con số tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp, nhưng thực tế các trường chỉ dựa trên số liệu mà trường “liên hệ” được với sinh viên qua phiếu điều tra, điện thoại, email... Đơn cử các trường ĐH trên địa bàn TP Cần Thơ, hằng năm, tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp đạt trên 60%, thậm chí trên 90%. Thế nhưng lãnh đạo các trường cũng thừa nhận dựa trên cơ sở số sinh viên mà trường “có liên hệ”. Trong khi đó, đây là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng của cơ sở đào tạo và dự báo nguồn nhân lực cho tương lai.

Thực tế cho thấy giáo dục ĐH ở ĐBSCL đã có bước chuyển đáng kể về số lượng, khi hằng năm có hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp đại học. Tuy nhiên, số lượng không thể là bàn đạp để ĐBSCL phát triển mà đi kèm với số lượng phải là chất lượng. Bởi vì chỉ có nguồn nhân lực có chất lượng, đúng yêu cầu mới giúp ĐBSCL đưa hạt gạo, con cá, con tôm, các loại trái cây... vươn xa hơn nữa. n

Bài cuối: Làm gì để nâng cao chất lượng giáo dục đại học?

Chia sẻ bài viết