Bài 1: “ĐỘ VÊNH” VỀ CHẤT LƯỢNG
* Điều tra: THANH NGỌC
Còn nhớ 12 năm trước, người dân vùng châu thổ Cửu Long rất vui khi Trường Đại học (ĐH) An Giang được thành lập. Mừng vì sau 25 năm giải phóng, ĐBSCL có thêm được một trường ĐH- bên cạnh Trường ĐH Cần Thơ. Thì nay, theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), tính đến cuối năm 2010, ĐBSCL có 11 trường ĐH. Sự “nở nồi” về số lượng trường ĐH của vùng, tạo phấn khởi cho học sinh và phụ huynh khi có nhiều cơ hội học tập hơn, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực toàn vùng, phục vụ phát triển kinh tế- xã hội địa phương. Thế nhưng, chuyện giáo dục, đào tạo không chỉ là số lượng mà đòi hỏi cả về chất lượng và nhiều vấn đề đặt ra về chất lượng đào tạo ĐH đang được các nhà quản lý giáo dục trăn trở.
Theo Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê quyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020, cả nước đạt 300 sinh viên/ vạn dân vào năm 2015 và 450 sinh viên/ vạn dân vào năm 2020. Để thực hiện mục tiêu trên đòi hỏi có sự đầu tư đột phá về nguồn lực, nhất là hệ thống cơ sở đào tạo cho các vùng, miền trên cả nước. Dự kiến đến năm 2020, tùy theo từng vùng cụ thể sẽ có thêm nhiều trường đại học, như vùng Tây Bắc (10 trường), Đông Bắc (37 trường), ĐBSCL (khoảng 70 trường)... Có thể nói, 10 năm qua, Trung ương, địa phương đã có những quyết sách để vực dậy giáo dục đại học ĐBSCL, nhưng để giáo dục đại học thực sự tương xứng với vùng trọng điểm của cả nước, đòi hỏi có giải pháp lâu dài, căn cơ. |
Đào tạo trùng lắp
 |
Sinh viên Trường Đại học Cần Thơ đang truy cập mạng internet tại Trung tâm Học liệu
của trường. Ảnh: B. NG |
Có thể nói, nhằm đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, các trường ĐH đã và đang mở các ngành đào tạo sát hợp với nhu cầu thực tế ở từng địa phương. Đơn cử năm 2012, Trường ĐH Tiền Giang mở thêm một ngành học mới cao đẳng Tài chính - Ngân hàng; ĐH Trà Vinh mở thêm 5 ngành mới ĐH và 2 ngành mới CĐ; ĐH Bạc Liêu mở thêm 2 ngành mới ĐH (Chăn nuôi, Bảo vệ thực vật) và 2 ngành CĐ (Sư phạm Vật lý và Sư phạm Địa lý). Hai trường ĐH ngoài công lập (Tây Đô, Võ Trường Toản) mở thêm các ngành khối y- dược (Y đa khoa, Dược)... Riêng Trường ĐH Cần Thơ- trường ĐH lớn nhất vùng ĐBSCL, cũng mở thêm 2 chuyên ngành mới: Khuyến nông (một chuyên ngành mới của ngành Phát triển nông thôn) và Kỹ thuật nông nghiệp (một chuyên ngành mới của ngành Nông học). Theo PGS.TS Đỗ Văn Xê, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Cần Thơ, việc mở mới 2 chuyên ngành này nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng ở lĩnh vực nông nghiệp ở ĐBSCL. Để mở thêm chuyên ngành mới, lãnh đạo trường căn cứ vào nhu cầu xã hội, năng lực và chiến lược phát triển đào tạo của trường. Nhu cầu xã hội đối với nguồn nhân lực được đào tạo chuyên sâu ngày càng cao, sinh viên sẽ học chuyên sâu vào thực tế sản xuất, rèn luyện khả năng về lĩnh vực nông nghiệp.
Không thể phủ nhận việc mở ngành, chuyên ngành đào tạo mới nhằm mục đích phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương, thế nhưng, theo các chuyên gia, trong một vài năm gần đây, hầu hết ngành mới ở các trường có sự “trùng lắp”. Bởi lẽ, các trường ĐH mở ngành đào tạo phục vụ cho địa phương nhưng cũng dựa trên cơ sở nhu cầu thực tế của thí sinh, phụ huynh; đúng hơn là theo xu hướng các ngành đang “hot” hiện nay hoặc những ngành nghề mà ít đầu tư về trang thiết bị thực hành, thực tập. Đơn cử các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, sư phạm... Nhìn bức tranh chung về tổng thể các ngành đào tạo của các trường ĐH, hầu như các ngành trên, trường nào cũng có đào tạo. Theo TS Ngô Tấn Lực, Hiệu trưởng Trường ĐH Tiền Giang, hiện nay, các khu công nghiệp- thương mại- dịch vụ đang phát triển mạnh ở TP Mỹ Tho, trường mở mới ngành Tài chính - Ngân hàng nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển của địa phương và các tỉnh lân cận. Còn khối ngành nông nghiệp, sư phạm thì trường nào cũng có. 4 ngành mới bậc ĐH, CĐ năm nay của Trường ĐH Bạc Liêu hầu hết là ngành nông nghiệp và sư phạm.
“Căn bệnh” đào tạo các ngành nghề “trùng lắp” không phải bây giờ mới có ở các trường đại học vùng ĐBSCL, mà nó đã trở nên “trầm kha” chưa có cách khắc phục. Điều này được chứng minh khi nhìn vào thông báo chiêu sinh của các trường. Nếu như, ĐH Cần Thơ có sư phạm thì ĐH Tây Đô, ĐH Võ Trường Toản, ĐH An Giang, ĐH Trà Vinh, ĐH Bạc Liêu... thậm chí Trung tâm Đại học Tại chức Cần Thơ cũng liên kết đào tạo giáo viên sư phạm. Đó là chưa kể hàng loạt trung tâm giáo dục thường xuyên ở các tỉnh, thành khu vực ĐBSCL cũng liên kết với các trường sư phạm để mở lớp đào tạo giáo viên. Trong khi đó, toàn vùng chỉ có hơn 400 trường THPT. Và điều tất yếu dẫn đến hệ lụy giáo viên không tìm được chỗ dạy, sau khi tốt nghiệp đại học. Khi thấy nhiều anh chị không tìm được việc làm, học sinh THPT sẽ “tránh” các ngành này, dẫn đến tình trạng một số ngành không thể tuyển đủ thí sinh. Chẳng hạn, tuyển sinh năm 2011, hầu hết các ngành sư phạm của Trường Đại học An Giang đều có số lượng thí sinh đăng ký dự thi thấp so với chỉ tiêu. Riêng 2 ngành Sư phạm Kỹ thuật Nông nghiệp và Sư phạm Kỹ thuật công nghiệp, nhiều năm liền Trường Đại học An Giang không thể tuyển sinh. Đây cũng là tình trạng chung của Trường Đại học Đồng Tháp. Vì vậy, năm 2011, Trường Đại học Đồng Tháp đã phải tuyển đến nguyện vọng 3... Có thể nói, ngoài Trường ĐH Cần Thơ thì ĐH Đồng Tháp, ĐH An Giang là 2 trường thuộc loại “khá” trong khu vực nhưng đã “lận đận” trong tuyển sinh, nên các trường khác còn bi đát hơn... Tương tự như ngành sư phạm là ngành nông nghiệp, tình trạng thiếu sinh viên cũng diễn ra. Ông Ngô Tấn Lực, Hiệu Trưởng Trường Đại học Tiền Giang, cho biết: “Mặc dù đã tuyển đến nguyện vọng 3 nhưng mỗi năm trường chỉ tuyển được 50-60% chỉ tiêu của ngành nông nghiệp”. Là trường đại học lớn nhất vùng nhưng năm 2011, số lượng thí sinh đăng ký dự thi vào các ngành nông nghiệp của Trường ĐH Cần Thơ cũng giảm khoảng 20%...
Sự trùng lắp dường như được dự báo trước khi hàng loạt trường đại học ở ĐBSCL ra đời. Trong đó có một số trường được thành lập mới, một số trường được nâng cấp... Dù các hình thức khác nhau nhưng các trường này đều có một đặc điểm chung là thiếu điều kiện cơ sở vật chất, thiếu trang thiết bị hiện đại và thiếu lực lượng giảng viên cơ hữu đạt yêu cầu. Vì vậy, trong điều kiện “chân ướt chân ráo” lên đại học, các trường phải chọn đào tạo những ngành nghề không đòi hỏi nhiều trang thiết bị hiện đại để nghiên cứu thực hành và trên hết là những ngành “dễ” thỉnh giảng giảng viên. Sự nở rộ các ngành nghề trùng lắp của các trường đã chia sẻ lượng thí sinh dường như không tăng hằng năm. Vì vậy, dẫn đến tình trạng thiếu nguồn tuyển sinh là không tránh khỏi.
Thiếu những ngành nghề kỹ thuật cao
6 năm qua, Trường ĐH Cần Thơ- trường ĐH duy nhất của ĐBSCL được Bộ GD&ĐT cho phép đào tạo chương trình tiên tiến ở 2 ngành: Công nghệ sinh học, Nuôi trồng thủy sản. Với điều kiện: Sau khi trúng tuyển vào Trường ĐH Cần Thơ ở khối A, B, nếu thí sinh có nguyện vọng vào học chương trình tiên tiến sẽ phải đăng ký dự tuyển. Đào tạo theo chương trình tiên tiến là chủ trương của Bộ GD&ĐT nhằm đưa chương trình đào tạo của các trường ĐH trong nước gần với chương trình đào tạo của các nước tiên tiến trên thế giới. Trường ĐH Cần Thơ xét tuyển dựa vào tiêu chuẩn kết quả thi ĐH của thí sinh và trình độ tiếng Anh. Theo PGS.TS Đỗ Văn Xê, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Cần Thơ, chương trình tiên tiến ở trường vận dụng một cách linh hoạt chương trình đào tạo của các trường ĐH Hoa Kỳ vào giảng dạy cho sinh viên Việt Nam. Sinh viên học chương trình này sẽ học các học phần chuyên môn bằng tiếng Anh. Bằng tốt nghiệp sẽ do Trường ĐH Cần Thơ cấp và sinh viên có cơ hội tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, vững vàng về chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, có cơ hội việc làm cao hơn tại một số đơn vị nước ngoài. Ngoài ra, trường còn đào tạo ngành công nghệ thông tin chất lượng cao, do trường đào tạo với Tập đoàn Công nghệ thông tin Aptech (Ấn Độ). Sau khi tốt nghiệp, sinh viên được cấp 2 bằng (bằng cao đẳng Công nghệ thông tin, theo hệ thống bằng cấp quốc gia và một giấy chứng nhận của Aptech). Tuy nhiên, việc đào tạo những ngành nghề kỹ thuật cao ở các trường ĐH chiếm không nhiều.
Có nhiều nguyên nhân khiến không ít trường ĐH ngại mở các ngành nghề kỹ thuật cao, theo cán bộ quản lý ở các trường, khi mở ngành mới, nhất là ngành nghề kỹ thuật cao, đòi hỏi đảm bảo đủ nguồn lực (cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ giảng viên) nhưng trường vẫn chưa đủ “lực” để thực hiện. Theo TS Ngô Tấn Lực, Hiệu trưởng Trường ĐH Tiền Giang, kinh phí đầu tư cho khối ngành kỹ thuật khá lớn, trong khi kinh phí phân bổ hằng năm của tỉnh cho trường vẫn chưa thể đáp ứng yêu cầu. Thiếu tiềm lực thực sự nên nhiều trường không dám mở các ngành kỹ thuật cao. TS Nguyễn Văn Đệ, Hiệu trưởng Trường Đại học Đồng Tháp, băn khoăn: “Muốn mở một ngành kỹ thuật cao cần phải có điều kiện cơ sở vật chất đáp ứng. Đặc biệt phải có thiết bị đạt yêu cầu để đào tạo thực hành. Một phòng thí nghiệm trung bình phải từ 5 tỉ đồng trở lên. Vì vậy, trường không có kinh phí, rất khó để mở ngành mới”. Đặc biệt, vấn đề “con người” cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc khó mở ngành kỹ thuật cao, vì hầu hết các trường đại học trong vùng đều thiếu nhân lực chất lượng cao để có thể làm đầu tàu giảng dạy. Là trường đại học lâu đời nhất vùng nhưng ĐH Cần Thơ chỉ có 17% giảng viên có trình độ Tiến sĩ, một số trường ĐH khác số lượng Tiến sĩ chỉ có thể “đếm trên đầu ngón tay”...
Ngoài ra, vấn đề ngoại ngữ của sinh viên cũng là một yếu tố dẫn đến việc khó thực hiện đào tạo những ngành nghề kỹ thuật cao. Trình độ ngoại ngữ luôn là yếu điểm của học sinh vùng ĐBSCL. Thực tế trong một hai năm đầu triển khai chương trình tiên tiến tại Trường ĐH Cần Thơ, số sinh viên theo học khá “khiêm tốn”. Cụ thể năm học 2006-2007 (năm đầu tiên trường triển khai chương trình tiên tiến ngành công nghệ sinh học), chỉ có 27 sinh viên; kế đó có hơn 30 sinh viên theo học... Hiện nay, trường đang đào tạo khoảng 200 sinh viên ở 2 ngành Công nghệ sinh học, Nuôi trồng thủy sản. Theo lãnh đạo Trường ĐH Cần Thơ, những năm đầu ít sinh viên theo học là do ngành này khá mới, sinh viên, học sinh ở ĐBSCL còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ,...
---------------
Bài 2: Thừa lượng, thiếu chất