08/11/2022 - 08:51

Một thứ ánh sáng chậm trong thơ 

"Vang âm tiếng sóng" - tập thơ thứ 11 của nhà báo, nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh vừa ra mắt. Đây là kết quả của sự trải nghiệm đi nhiều vùng đất, gặp nhiều con người, gợi mở cho tác giả nhiều suy ngẫm về thời cuộc đất nước và thế giới hiện hữu. Với 360 trang sách, tác giả không chỉ miêu tả hiện thực sống động mà điều quan trọng rút ra nhiều triết lý nhân sinh có ý nghĩa cả về thực tiễn và lý luận. Hơn 55 năm cầm bút, có lẽ đây là sự “nhả tơ” mà người đọc trân trọng đón nhận… Báo Cần Thơ xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về tập thơ của nhà báo, nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh.

Phàm đã là người sáng tác, quan trọng bậc nhất vẫn là đi và viết. Nói rốt ráo hơn là đi để viết. Ở đây, đi chính là để “nạp” cảm xúc và “nạp” trải nghiệm; Còn viết là phần thể hiện bằng văn bản cùng một lúc, hoặc diễn ra sau đó như một đòi hỏi tự thân. Trong đó, cảm xúc có tác dụng làm gia tăng chất xúc tác, còn trải nghiệm làm tăng sự tích luỹ, khám phá, phát hiện...

Riêng trải nghiệm là của từng người, thuộc về từng người, làm nên cái khác, cái độc đáo của từng người. Trên thế giới, người ta xếp sự hiểu biết qua việc đọc sách chỉ là “tri thức hạng hai”, còn sự hiểu biết qua trải nghiệm cá nhân mới là “tri thức hạng nhất”. Bởi sự đọc sách thuộc về số đông, còn sự trải nghiệm thuộc về số ít, đơn lẻ.

Ai cũng nhìn trăng, ngắm trăng và thấy trăng rất gần gũi, quen thuộc. Ai cũng thấy trăng thật đẹp, thật hấp dẫn trên bầu trời về ban đêm, nhất là vào đêm sáng trăng. Thế nhưng chỉ có Rítxốt - nhà thơ Hy Lạp lúc sinh thời nhận ra trăng của riêng ông qua con mắt của ông và sự trải nghiệm của ông thật khác người. Chính vì thế mà Rítxốt mới sở hữu hai câu thơ độc đáo lạ thường:

"Kìa vầng trăng trên trời

Trông như lỗ thủng vậy".

Theo cách nói của dân gian thì “đi” là “đổi gió”, là làm thay đổi không khí, môi trường sống. Và sự “đổi gió”, bao giờ cũng đem lại sự thay đổi, tươi mới, giúp ta sống với hiện tại này và đời sống này đến từng khoảnh khắc, chiều sâu.

Đọc “Vang âm tiếng sóng”, tôi ngộ ra rằng: Chính vì nhờ đi nhiều, sống nhiều mà nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh viết được nhiều bài báo và có nhiều thơ. Chỉ trong khoảng hai năm lại đây, thơ đã đều đặn đến với ông, dù đã ở tuổi “xưa nay hiếm”, vẫn đủ để ông in một tập thơ dày dặn và đầy đặn này. Bên cạnh đi nhiều, sống nhiều, chỗ dựa của thơ ông chính là lòng yêu thương và tin yêu con người. Rồi tất cả những gì từng ghìm nén như được giải thoát.

Nói không quá, thì chỗ dựa này đã trở thành động lực mang tính thường hằng để Nguyễn Hồng Vinh cầm bút viết. Và vì thế, ông đặt tên tập thơ thứ 11 này của đời ông là "Vang âm tiếng sóng": Sóng của quê hương, đất nước; sóng của tình yêu con người, tình yêu đôi lứa… luôn vang trong trái tim ông, để từ đó bật mầm những tứ thơ, bài thơ dung dị mà lắng sâu, có bài mang tính triết luận, có bài hầu như là diễn tả cái thường nhật của đời sống; nhưng dù ở ở dạng thức nào, đều có sức cuốn hút và gây dấu ấn, tuy với mức độ đậm, nhạt khác nhau trong nhiều bạn đọc và công chúng yêu thơ.

Tôi có cảm giác: Nhờ “đi nhiều”, “sống nhiều”, “yêu thương và tin yêu con người” nên thơ Nguyễn Hồng Vinh càng có tầm khái quát và ôm trùm hơn. Những bài thơ: “Tổ quốc thiêng liêng”, “Tiếng sóng quê hương”, “Khắc khoải Sài Gòn”, “Nhớ nắng miệt vườn”, “Một thoáng Cần Thơ”, “Ba Lòng vẽ lại dung nhan”, “Hoa mộc miên giữa đá”, “Sức hút Việt Nam”... đã thực chứng điều đó. Trong “Tổ quốc thiêng liêng”, ông gắn “người người lớp lớp” với “Tiến quân ca”: “Ngày đầu tuần, người người lớp lớp/ Hát “Tiến quân ca” trào dâng lồng ngực”. Trong “Tiếng sóng quê hương”, ông gắn mình với quê hương bản quán: “Dù ở chân trời góc bể/ Vẫn canh cánh nhớ cội nguồn có nhúm rau chôn đất”. Trong “Khắc khoải Sài Gòn”, ông nhắc nhở mọi người: Cuộc đời không có gì phải sợ, “chỉ sợ lòng người tự tạo bão giông”...

“Vang âm tiếng sóng” có nhiều bài thơ tình ấn tượng, cho thấy sự say cháy và bừng rộ nhờ lối viết, cách triển khai rất riêng, tạo nên phong cách thơ Hồng Vinh. Chất ngẫm cảm, liên tưởng cũng được đẩy lên ở mức cao.

Đây là ví dụ thứ nhất:

"Em rót vào anh tràn ly rượu

Hai ta lên xuống giữa trời mây

Sóng như tung lên rồi nhấn xuống

Con thuyền cứ thế ngả nghiêng say"

(“Tình say”)

Ví dụ thứ hai:

"Ngỡ em nhả tơ từ kiếp trước

Để anh ám ảnh một kiếp tằm

Kìa sông chảy xuôi, cá lội ngược

Đôi mình như mắc lưới tình duyên"

(“Nhả tơ”)

Ví dụ thứ ba:

"Hoa sưa trắng nỗi niềm xưa

Sáng-trưa-chiều-tối...đón đưa em về

Hoa sưa bừng nở, còn nghe

Tiếng chim líu ríu đầu hè...nhắc ai?"

(“Hoa sưa”)

“Nhớ cà phê phố” là ví dụ thứ tư.

Đây là một bài thơ đặc sắc, viết như “bắt được” vậy. Chính sự thiếu vắng, nói cụ thể là sự “thiếu em”, cùng sự tiếc nuối và ngậm ngùi đã trở thành cái hồn cốt, cái căn cơ của tứ thơ. Nguyên văn:

"Phố xa

Anh ngóng đợi từng phút

Cà phê nhỏ giọt

Em xa hút...

 

Từ ngày trở về

Anh lẻ bóng

Nuối tiếc ngày xưa trong cõi lặng

 

Giá kim đồng hồ quay ngược

Em ơi!"

Rõ ràng, người xưa thì chưa thấy, nhưng ngày xưa và những kỷ niệm xưa thì vẫn còn. Và nói theo Lý Bạch thì “Người” có thể “không bao giờ về” nhưng “Hương” tình yêu thì “không bao giờ mất”

Tất nhiên, không chỉ có “Nhớ cà phê phố” mà cả “Hoa sưa” và “Nhả tơ” cũng không hề kém cạnh. Một “Hoa sưa” với “Hoa sưa trắng nỗi niềm xưa”, thật đáng nhớ. Một “Nhả tơ” với “Ngỡ em nhả tơ từ kiếp trước/ Để anh ám ảnh một kiếp tằm” để rồi anh và em “như mắc lưới tình duyên”, cũng thật đáng nhớ!...

Còn những câu: “Cỏ sinh để mà xanh/ Héo vàng để thêm mượt lá” (“Cỏ và anh”), “Gói cả niềm yêu vào vạt áo” (“Không biết gì”), “Gió chiều phơ phất triền đê/ Còn đây vạt cỏ thầm thì hôm nao/ Đời người như giấc chiêm bao...” (“Gặp lại”) là những đơn vị thơ, chi tiết thơ đáng chú ý. Nên nhớ, trong thơ, đơn vị thơ, chi tiết thơ là rất cần thiết và là điểm nhấn cho mỗi bài thơ. Không có các chi tiết thơ, các đơn vị thơ, bài thơ không “đứng” được. Nói cách khác: Sở dĩ một bài thơ sống được trong lòng độc giả là nhờ các đơn vị thơ, các chi tiết thơ. Nhiều khi chúng như là những cái đinh đóng vào trí nhớ người đọc. Riêng “Khép - mở”, theo tôi là một tứ thơ lạ với nhiều ẩn ý hiện ra sau những khoảng mờ của chữ và nghĩa ở đằng sau hai câu hỏi không dễ trả lời:

"Sân khấu đã sáng đèn

Sao nhìn không rõ mặt?

Cửa sông Hàn mênh mông

Mà hồn thơ lại khép?!"

Hoặc ở đoạn kết bài “Tản mạn bên trong” gợi cho người đọc rất nhiều suy ngẫm về nhân tình, thế thái trong thời cơ chế thị trường:

"Mong là con người đích thực

Hãy BUÔNG tham vọng

“Để đón nhận

Cái ta có thể trở thành”"

Đến với thơ có phần muộn màng do phải tập trung sức lực và thời gian để hoàn thành những trọng trách do Đảng, Nhà nước giao. Và dường như để bù lại phần muộn màng ấy, nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh đã in trên 10 tập thơ với xấp xỉ cả nghìn bài thơ trong khoảng 12 năm (từ 2010 đến nay). Chỉ riêng số lượng thôi, đối với một người làm thơ cận kề tuổi bát thập, đã là đáng kể và đáng nể. Bằng sự bền bỉ và sự bứt phá theo cách của mình, thơ Nguyễn Hồng Vinh được ví như một thứ ánh sáng chậm.

Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến bài thơ “Ánh sáng chậm” của nhà thơ Bungari Bôgiđa Bôgilốp. Xin được trích bốn câu thơ dưới đây để khép lại bài viết này:

"Các nhà thơ đến với đời chầm chậm

Ở trên ta như thể một vầng trăng

Một mặt trăng có lẽ đã chảy tan trong bóng tối của đêm

Để lại phía sau mây một vầng rạng sáng."

Xin nồng nhiệt chúc mừng tập thơ "Vang âm tiếng sóng" của nhà thơ, PGS,TS Nguyễn Hồng Vinh!

Phố Khuất Duy Tiến, đêm 27/9/2022

Nhà thơ Đặng Huy Giang (Hội Nhà văn Việt Nam)

Chia sẻ bài viết