10/11/2012 - 09:17

ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG THỦY LỢI Ở ĐBSCL

Kỳ tích và những yêu cầu cấp thiết

* ANH KHOA - VĂN CỘNG

Bài 3: Nhiều vấn đề khó đã phát sinh

Dù đã góp phần đem lại nhiều thành công trong sản xuất nông nghiệp nhưng hệ thống thủy lợi ĐBSCL cũng đang bộc lộ những hạn chế và yếu kém. Trong khi đó, biến đổi khí hậu, tình hình khô hạn, ngập mặn, bão lũ và nhất là sự dâng cao của mực nước biển… đã và đang gây thêm nhiều tác động xấu. Vì vậy, củng cố, phát triển hệ thống thủy lợi nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ và phát triển sản xuất, cũng như đảm bảo an sinh xã hội của vùng ĐBSCL trong tình hình mới đang là yêu cầu cấp thiết…


Nhiều hạn chế, tồn tại

Bên cạnh tác động tích cực, phát triển thủy lợi cũng có những tác động tiêu cực nhưng chưa được khắc phục. Những vấn đề này cần phải được rút kinh nghiệm một cách thấu đáo để có thể làm tốt hơn trong thời gian tới.

Năm 2011, lũ lớn đã xảy ra tại ĐBSCL làm vỡ nhiều đê bao và gây đe dọa cho nhiều diện tích sản xuất lúa vụ thu đông. Trong ảnh: Thu hoạch lúa vụ  thu đông 2012 chạy lũ ở huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ. Ảnh: VĂN CÔNG 

Trong quá khứ, nhất là giai đoạn 1975-1980, chúng ta đã từng chủ quan khi đầu tư xây dựng hàng loạt trạm bơm lớn, mỗi trạm bơm phục vụ cho cả trăm, thậm chí cả ngàn héc-ta đất sản xuất nông nghiệp. Cuối cùng, mô hình này đã bị thất bại vì không phù hợp với các điều kiện thực tế vùng ĐBSCL. Những thập niên gần đây, hiệu quả trong công tác đầu tư thủy lợi tại ĐBSCL đã được nâng cao, song vẫn còn xảy ra tình trạng đầu tư thiếu sự cân nhắc kỹ dẫn đến đầu tư dàn trải, chưa sát với nhu cầu thực tế và tính bức thiết. Mặt khác, đầu tư thủy lợi phục vụ sản xuất lúa đã được quan tâm thực hiện khá tốt nhưng việc đầu tư thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản và phát triển nhiều loại cây trồng khác tại nhiều địa phương ở ĐBSCL chưa được quan tâm đúng mức và thiếu sự gắn kết. Thực tế cho thấy, việc đầu tư xây dựng đê bao và cống đập ngăn mặn phục vụ sản xuất lúa tại một số địa phương ven biển thời gian qua đã bộc lộ hạn chế khi công tác khảo sát, đánh giá về nhu cầu, hiệu quả kinh tế và những tác động xấu có thể xảy ra cho hệ sinh thái… chưa được làm tốt. Hệ quả là đã gây ra những lãng phí và tác động xấu không đáng có đến môi trường khi có tình trạng công trình đê ngăn nước mặn được đầu tư hàng tỉ đồng đưa vào sử dụng không bao lâu đã bị người dân tự ý phá bỏ để dẫn nước mặn vào ruộng nuôi tôm và các loài thủy sản khác.

Sau 10 năm không có lũ lớn, nhiều công trình thủy lợi không được quan tâm tu bổ gia cố nên năm 2011 khi xảy ra lũ lớn ở ĐBSCL đã gây nhiều thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp cũng như tài sản, tính mạng của người dân… Ngoài ra, do hạn chế về nguồn vốn đầu tư và việc quan tâm đầu tư chưa đúng mức nên công tác thủy lợi tại nhiều địa phương trong vùng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và đảm bảo an sinh xã hội. Mặt khác, biến đổi khí hậu, nguy cơ thiếu nước sản xuất do ô nhiễm môi trường đang đe dọa đến sự phát triển bền vững của vùng và ảnh hưởng đến đời sống người dân. Theo phân tích và dự báo về kịch bản nước biển dâng của Bộ Tài nguyên và Môi trường, khả năng mức nước biển dâng tại ĐBSCL vào năm 2050 có thể đạt từ 28-33 cm và từ 65-100cm vào năm 2100. Nếu nước biển dâng cao từ 65-100 cm vào cuối thế kỷ 21 thì khoảng 39-70% diện tích ĐBSCL sẽ bị nước mặn và sẽ làm mất khoảng 2 triệu héc-ta đất trồng lúa. Các tỉnh bị ảnh hưởng nhiều được dự báo gồm: Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long… Điều này đòi hỏi phải có đầu tư mới, mạnh mẽ cho các công trình thủy lợi trong vùng.

Theo Viện Sinh học nhiệt đới TP Hồ Chí Minh, việc phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp đã làm phá vỡ cấu trúc tự nhiên của đất. Tác động rõ rệt nhất là việc đắp đê bao, đào kênh mương ngang dọc, gồm kênh cấp 1, kênh cấp 2, kênh cấp 3 đã chia cắt ĐBSCL thành nhiều ô nhỏ. Hệ thống thủy lợi phát triển đến đâu thì diện tích đất gieo trồng lúa phát triển đến đó. Việc tôn nền đất ở, làm đường giao thông tránh lũ và lên liếp trồng cây đã tạo nên những thay đổi về địa hình và tính chất của đất. Có khoảng 15% diện tích tự nhiên ở ĐBSCL được tôn cao để xây dựng các công trình chuyên dùng và trồng cây lâu năm. Ở một số nơi, người dân đã đưa nước mặn vào đồng để tự ý chuyển sang nuôi thủy sản, khi nuôi bị thất bại, đất đã bị nhiễm mặn không thể cải tạo để canh tác các loại cây trồng… Theo kết quả nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học thuộc Viện Địa lý Tài nguyên TP Hồ Chí Minh về những thay đổi môi trường tại ĐBSCL, tại nhiều vùng ven biển ĐBSCL, các hoạt động khai phá, phát triển kinh tế-xã hội quá mức của con người như: khai thác cát ven biển, xây dựng các đê biển, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất như phá rừng ngập mặn, chuyển từ đất trồng lúa sang nuôi tôm và các loại thủy sản nước mặn…, kết hợp với các tác động xấu của tự nhiên đã làm cho khu vực hạ lưu đồng bằng châu thổ ngày càng chịu nhiều ảnh hưởng của xâm nhập mặn đối với nước ngầm và đất nông nghiệp, gia tăng xói lở bờ biển...

Số liệu thống kê trong nhiều năm qua cho thấy, bờ biển Trà Vinh bị xói lở nghiêm trọng, hiện tượng xói lở xảy ra ở một số địa phương với tốc độ 10-15 m/năm. Bờ biển tỉnh Cà Mau, các kết quả khảo sát cho thấy tốc độ xói lở cũng có xu hướng ngày càng tăng. Mũi Cà Mau đặc trưng cho bờ biển bồi tụ với tốc độ bồi cao khoảng 80-90 m/năm, nhưng từ năm 1998 ở một vài vị trí đã có hiện tượng xói lở đáng kể với tốc độ trung bình 40-60 m/năm. Trong khi đó, nhiều đập thủy điện đã và đang có kế hoạch xây dựng ở thượng nguồn sông Mekong như: Manwan, Đachaoshan, Xiaowan và Jingong (ở Trung Quốc); các đập Sayabouli, Paklay,Pakbeng, Sanakham, Luangprabang, Latsua và Donasehong ở Lào; đập Strung Treng, Sambor ở Campuchia… đang ảnh hưởng đáng kể đến quá trình vận chuyển phù sa đến vùng hạ lưu. Các hoạt động của con người ở vùng thượng lưu sông Mekong như: chặt phá rừng đầu nguồn, xây nhiều đập, đắp đê ngăn lũ, khai thác quá mức cát lòng sông… cũng đã gây ra tác hại là gia tăng lũ lụt, ngập úng, làm thay đổi dòng chảy và gây sạt lở bờ sông.

Vốn đầu tư: vấn đề khó!

Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, cho rằng: Đầu tư cho thủy lợi là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong sản xuất nông nghiệp tại ĐBSCL trong thời gian qua. Trong tương lai, đầu tư cho thủy lợi vẫn là một trong những yếu tố mang tính quyết định "sống còn" đối với vùng, nhất là trong tình hình biến đổi khí hậu làm gia tăng các loại thiên tai… ĐBSCL đã và đang bắt đầu phải đối mặt với tình trạng hạn vào đầu vụ đông xuân và bị nước mặn xâm nhập ngày càng nặng, nước lũ thì diễn biến phức tạp do dòng chảy bị ngăn cản và thay đổi làm cho "lũ hiền bị biến thành lũ dữ", nước lũ đẩy nhanh ra biển làm một lượng lớn phù sa không thể lắng lại đồng ruộng như trước đây... Để đối phó với tình trạng nước biển dâng, ngay bây giờ phải tính toán thật kỹ đến việc làm các đê biển và có biện pháp chủ động nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Việc thiếu nước ngọt phục vụ sản xuất có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản lượng lương thực, do vậy ngay từ bây giờ ta phải tính đến vấn đề trữ nước, tính toán đầu tư xây dựng các hồ chứa nước ngọt cho ĐBSCL…

Tuy nhiên, khó khăn lớn cho đầu tư phát triển các công trình thủy lợi tại ĐBSCL chính là vấn đề thiếu vốn và còn khó huy động các nguồn lực từ xã hội, nhất là những công trình lớn. Theo các địa phương ở ĐBSCL, nhu cầu vốn phục vụ cho các công trình thủy lợi đang là rất lớn nhưng các nguồn vốn để thực hiện rất hạn chế, do vậy các địa phương rất cần có sự hỗ trợ nhiều hơn nữa từ Trung ương. Thời gian qua các nguồn vốn đầu tư cho thủy lợi tại nhiều địa phương chủ yếu là từ nguồn sự nghiệp thủy lợi, kiên cố hóa kênh mương, vốn huy động của nhân dân và vốn hỗ trợ của Trung ương qua các chương trình mục tiêu hay chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất lúa vụ 3, hỗ trợ khắc phục thiên tai… Dù có nhiều nguồn nhưng các nguồn còn khá hạn chế, trong đó các nguồn vốn huy động từ nhân dân chủ yếu phục vụ cho thủy lợi nội đồng và làm đường giao thông nông thôn. Ông Cao Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Kiên Giang, cho biết: "Hiện nay, một số khu vực trong tỉnh (như các huyện U Minh Thượng, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận…) do chưa có hệ thống đê bao ngăn mặn và thiếu hệ thống tưới tiêu nên chỉ có thể sản xuất 1 vụ lúa trong năm, còn nuôi thủy sản thì phải đắp đập đất từng vùng sản xuất. Nếu các địa phương này được làm đê sẽ giúp ngọt hóa một vùng lớn, tạo thuận lợi cho một số địa phương lân cận. Nhưng nguồn vốn hàng mấy ngàn tỉ đồng không biết tìm đâu ra?!".

Theo ông Lê Văn Tư, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Đồng Tháp, để phục vụ phát triển sản xuất lúa và cây ăn trái, năm 2012 tỉnh cần đầu tư nâng cấp đê bao cho vùng sản xuất ăn chắc lúa thu đông 5 huyện phía Bắc với diện tích hơn 34.000 ha và đê bao cho vườn cây ăn trái của 6 huyện phía Nam với diện tích hơn 6.600ha, với tổng nhu cầu vốn hơn 180,3 tỉ đồng. Trong đó, tổng vốn phục vụ nâng cấp 64 ô đê bao (có tổng chiều dài 226km) phục vụ sản xuất lúa vụ 3 của 5 huyện phía Bắc là hơn 157,6 tỉ đồng và 68 ô đê bao phục vụ vườn cây ăn trái có tổng chiều dài 81km, kinh phí đầu tư hơn 22,7 tỉ đồng. Thời gian qua, nhu cầu vốn phục vụ cho các công trình thủy lợi là rất lớn nhưng các nguồn vốn để thực hiện rất hạn chế, tỉnh rất cần có sự hỗ trợ nhiều hơn nữa từ phía Trung ương. Các nguồn vốn đầu tư cho thủy lợi trên địa bàn tỉnh thời gian qua chủ yếu là vốn từ nguồn thu thủy lợi phí, vốn chương trình kiên cố kênh mương và huy động của nhân dân...

Tại TP Cần Thơ, các huyện có diện tích sản xuất nông nghiệp lớn hàng năm đã tranh thủ có nguồn vốn, vận động dân tham gia đầu tư phát triển thủy lợi, đáp ứng nhu cầu sản xuất lúa hàng hóa tại địa phương. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra nguồn vốn đầu tư cho thủy lợi hàng năm vẫn còn hạn chế. Ông Lâm Minh Trí, Phó Trưởng phòng NN&PTNT huyện Cờ Đỏ, cho biết: Trên địa bàn huyện kênh tạo nguồn nhiều, trong đó các kênh lớn do thành phố quản lý huyện đề xuất thành phố đầu tư nạo vét. Còn các kênh do huyện quản lý kinh phí cấp hàng năm không đủ đáp ứng nhu cầu, do đó địa phương cố gắng chọn những con kênh bức xúc nhất giải quyết nạo vét trước; vận động dân nạo vét kênh nội đồng, gia cố đê bao nhưng đến nay hệ thống đê bao mới chỉ đảm bảo sản xuất lúa vụ 3 với diện tích hơn 13.000 ha trên tổng số diện tích đất sản xuất lúa của huyện khoảng 25.000 ha... Năm 2012, huyện Cờ Đỏ đã triển khai thi công 18 công trình nạo vét các kênh tạo nguồn, với tổng chiều dài hơn 37 km, khối lượng hơn 408.485m3, kinh phí hơn 9 tỉ đồng.

-------------

Bài cuối: Cần đầu tư có trọng tâm, có tầm nhìn dài hạn

Chia sẻ bài viết