* ANH KHOA - VĂN CỘNG
Bài 2: Khẳng định hướng đầu tư đúng đắn
Việc tăng cường đầu tư cho thủy lợi trong thời gian qua, nhất là trong 10 năm gần đây đã giúp ĐBSCL phát huy mạnh mẽ các lợi thế về sản xuất nông nghiệp. Từ đó, đưa sản xuất nông nghiệp của vùng phát triển, hình thành được những vùng chuyên sản xuất lúa hàng hóa, trái cây và thủy sản, góp phần nâng cao vị thế hàng nông sản và đời sống người dân
* Tập trung tháo chua, rửa phèn, ngăn mặn
Nằm trong lưu vực hạ lưu sông Mekong, sông Cửu Long ở vùng ĐBSCL có dòng chảy phân bố không đều giữa mùa lũ và mùa kiệt. Hàng năm mùa lũ sông Cửu Long thường kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12 gây ngập lụt ở nhiều địa phương. Thời gian còn lại trong năm là mùa kiệt, mực nước sông xuống thấp, gây khó khăn cho việc cấp nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp
Để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp của vùng ĐBSCL, hơn 30 năm qua, nhiều công trình thủy lợi đã được đề xuất và triển khai xây dựng. Ngoài mục đích kiểm soát lũ, điều tiết nước phục vụ sản xuất, các công trình này còn góp phần tháo chua, rửa phèn cho đất, ngăn sự xâm nhập mặn của nước biển vào sâu trong đất liền
Đến nay, diện tích ảnh hưởng mặn của ĐBSCL chỉ còn khoảng dưới 500.000 ha và diện tích ảnh hưởng của chua phèn giảm chỉ còn dưới 100.000 ha...

Trong những năm gần đây, tỉnh Kiên Giang đã đầu tư xây dựng hệ thống đê biển, cống ngăn mặn vừa phục vụ thoát lũ vừa ngăn mặn. Trong ảnh: Một cống ngăn mặn nằm trên địa bàn huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Ảnh: ANH KHOA. |
Trong các năm qua, nhờ công tác khẩn hoang, phát triển thủy lợi đã giúp mở rộng diện tích đất sản xuất nông nghiệp, cùng với đẩy mạnh cơ giới hóa, tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
giúp ĐBSCL có điều kiện tăng năng suất, sản lượng và chất lượng cây trồng vật nuôi, nhất là đối với cây lúa. Hiện nay, nhiều sản phẩm cây trồng, vật nuôi của ĐBSCL như: gạo, thủy sản, trái cây
không chỉ đảm bảo nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu với số lượng ngày càng tăng, đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước
Riêng đối với cây lúa, từ sản lượng lúa 4,2 triệu tấn vào năm 1976 đã nâng lên hơn 23 triệu tấn vào năm 2011, góp phần quan trọng trong an ninh lương thực và đóng góp trên 90% lượng gạo xuất khẩu cả nước. Từ năm 1989, với sự thành công lớn trong sản xuất lúa ở ĐBSCL, từ một nước thiếu đói, nước ta đã dần trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới - dự kiến năm 2012 có thể đứng vị trí số 1 thế giới.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Chí Bửu, Phó Giám đốc Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Miền Nam, thực tiễn sau 30 năm đổi mới đã chứng minh: Việt Nam hoàn toàn đúng khi hoạch định về chiến lược phát triển nông nghiệp trên nền tảng đầu tư thỏa đáng cho thủy lợi. Trong giai đoạn 1986-2008, diện tích gieo trồng lúa chỉ tăng 30% nhờ thủy lợi, nhưng sản lượng lúa tăng 142%, trung bình tăng 1,03 triệu tấn lúa/năm. Thủy lợi được đầu tư tập trung đã làm diện tích lúa có nước tưới tăng trung bình 2,9%/năm trong thập niên 1980 và thập niên 1990 là 4,6%/năm. Tổng vốn đầu tư cho thủy lợi trong thập niên 1990 đã tăng từ 1.538 tỉ đồng tăng lên 2.506 tỉ đồng/năm. Diện tích lúa có nước tưới đã đạt 80%, cao nhất trong các nước Đông Nam Á. Đến năm 2011, diện tích được tưới nước chiếm 85% diện tích canh tác lúa và 1,71 triệu ha được tiêu nước chủ động
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, 10 năm qua, toàn vùng ĐBSCL đã huy động trên 15.300 tỉ đồng xây dựng các công trình thủy lợi, kiểm soát lũ ở vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười; dự án chống ngập các thành phố và dự án Ô Môn-Xà No, Quản Lộ-Phụng Hiệp... Theo đó, hoàn thành 35 công trình thủy lợi vừa và nhỏ, trong số này có 12 công trình phục vụ trên 2.000 ha đất nông nghiệp, 20 công trình kiểm soát lũ ở vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười
Các địa phương vùng ĐBSCL cũng đã xây dựng hơn 754 km đê sông và đê biển, nhiều cống đập ngăn lũ, ngăn mặn, qua đó giúp mở rộng diện tích khai hoang, tăng vụ, hình thành thêm những vùng sản xuất mới. Đồng thời xây dựng một số dự án thủy lợi lớn thuộc vùng bán đảo Cà Mau, Nam Măng Thít có tác dụng quan trọng, gắn ngọt hóa với nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ. Các công trình thủy lợi bị hư hại bởi lũ lụt, thiên tai cũng được đầu tư, khắc phục kịp thời, đáp ứng nhu cầu dân sinh, phục vụ tưới tiêu nước cho cây trồng và phát triển nuôi trồng thủy sản. Theo ông Nguyễn Phong Quang, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, trong 10 năm qua, được sự quan tâm của Trung ương, sự nỗ lực to lớn của các địa phương
vùng ĐBSCL tiếp tục có sự chuyển biến tích cực, toàn diện trên nhiều mặt. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi từ xuất phát điểm thấp nay đã có bước phát triển quan trọng, làm thay đổi hẳn diện mạo của vùng... Có thể nói, hệ thống thủy lợi cơ bản bảo đảm kiểm soát lũ và cấp nước ngọt, bảo vệ dân cư và sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và các nhu cầu phát triển khác. Tuy nhiên, tới đây, vùng cần tiếp tục rà soát, hoàn chỉnh hệ thống đê biển, đê cửa sông, xác định rõ các công trình trọng điểm, cấp bách để quyết định ưu tiên đầu tư; tiếp tục phát triển các vùng chuyên canh cung cấp nguyên liệu thủy sản, trái cây, lúa gạo cho doanh nghiệp...
* Nâng cao hiệu quả sản xuất
Dự án kiểm soát lũ Bắc Vàm Nao của tỉnh An Giang được Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Úc đồng tài trợ, được triển khai đầu tư xây dựng từ năm 2002 đến năm 2007, triển khai vận hành thử nghiệm giai đoạn 2009-2012. Khu vực dự án có diện tích 30.836 ha (phần lớn diện tích của huyện Phú Tân và một phần diện tích của huyện Tân Châu). Hệ thống kiểm soát lũ Bắc Vàm Nao có vai trò kiểm soát lũ bằng hệ thống đê bao khép kín. Bao gồm: Đê bao vành đai dài 400 km và hệ thống đê bao tiểu vùng 300 km, đảm bảo kiểm soát lũ và phục vụ nhu cầu sản xuất cho hơn 24.000 ha đất nông nghiệp (chủ yếu là sản xuất lúa). Trên đê bao vành đai còn có hệ thống cống kiểm soát lũ (16 cống chính và 40 cống bọng), hệ thống kênh dẫn nước từ sông chính vào nội đồng được sử dụng để tiêu thoát nước từ nội đồng ra sông trong mùa lũ, các kênh này chia thành 24 tiểu vùng sản xuất độc lập. Toàn bộ công trình bảo vệ khu vực dự án quanh năm không bị ngập lụt, cho phép kiểm soát mực nước chủ động phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp, dân sinh
Ông Trần Quang Viễn, Chánh văn phòng Ban Quản lý Hệ thống Bắc Vàm Nao, cho biết: "Con lũ lớn năm 2011 chứng minh dự án mang lại hiệu quả tích cực. Hệ thống đê bao vẫn đảm bảo trước lũ lớn và trong vùng dự án không bị thiệt hại
".
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, ĐBSCL có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; vùng có nhiều tiềm năng và nguồn lực phát triển, với mức đóng góp khoảng 22% GDP của cả nước. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp, thủy sản hàng hóa lớn nhất nước ta, hằng năm sản xuất hơn 50% sản lượng lúa cả nước, đóng góp 90% lượng gạo xuất khẩu; cung cấp 70% lượng trái cây, 52% sản lượng thủy sản; đóng góp khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước. Những tiềm năng to lớn về nông sản của vùng cũng tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ thị trường nội địa phát triển, tạo ra nguồn hàng lớn cho xuất khẩu và là đầu vào quan trọng cho các ngành công nghiệp... |
Tỉnh An Giang và Kiên Giang (các địa phương có diện tích và sản lượng lúa lớn nhất nước ta) có dự án kiểm soát lũ hiệu quả. Đó là công trình thoát lũ ra biển Tây do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt khởi xướng. Công trình được xây dựng với mục tiêu chính là hạ mực nước lũ chính vụ, làm chậm đỉnh lũ vùng Tứ giác Long Xuyên, điều tiết một phần lũ ra biển Tây để cải tạo môi trường nước và đất vùng này, đồng thời lấy nước lũ nhiều phù sa từ sông Hậu vào vùng Tứ Giác Long Xuyên... Ông Vương Hữu Tiếng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh An Giang, cho biết: Công trình thoát lũ ra biển Tây do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đầu tư và hoàn thành vào khoảng năm 2000. Công trình gồm có kênh Vĩnh Tế; các kênh T4, T5, T6
nối từ kênh Vĩnh Tế với kênh Rạch Giá-Hà Tiên; mở rộng nạo vét thêm kênh Trà Sư, Tha La; đầu tư xây dựng 2 đập cao su Trà Sư, Tha La, 7 cống dọc kênh Vĩnh Tế
Hiện nay công trình đang phục vụ tốt, giúp thoát lũ ra biển Tây trong mùa lũ và cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp cho An Giang, Kiên Giang và một phần diện tích của TP Cần Thơ. Ông Cao Văn Nam, Chi Cục Trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Kiên Giang, cho biết: Công trình thoát lũ biển Tây từ sông Hậu ra vùng biển thuộc Kiên Giang có 27 đường thoát lũ ra biển (hệ thống cống vừa phục vụ thoát lũ vừa ngăn mặn). Năm nào lũ lớn mới mở cống thoát lũ; còn lũ thấp thì đóng cống giữ nước ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp cho tỉnh Kiên Giang và An Giang, nếu không sẽ thiếu nước sản xuất vào mùa khô. Được sự hỗ trợ của Trung ương và sự tham gia đóng góp tích cực của người dân, Kiên Giang đã đẩy mạnh đầu tư phát triển các công trình thủy lợi tạo nguồn và thủy lợi nội đồng giúp dẫn nước ngọt, tháo chua rửa phèn; từng bước củng cố xây dựng các đê bao, cống đập, ngăn lũ, ngăn mặn, xây dựng các tuyến đê biển giúp cải tạo đất, mở rộng diện tích sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, giúp nâng cao đời sống nông dân. Hiện nay, hầu hết các diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh có thể sản xuất từ 1-2 vụ lúa/năm với năng suất ổn định và khoảng 60.000 ha sản xuất được 3 vụ...
Tại TP Cần Thơ, việc đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi đã góp phần đảm bảo sản xuất nông nghiệp theo hướng quy hoạch, đem lại hiệu quả trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; giúp phát triển các mô hình sản xuất tiên tiến và tạo điều kiện mở rộng diện tích lúa thu đông (lúa vụ 3). Theo ông Phạm Văn Quỳnh, Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, thành phố phát triển thủy lợi tập trung theo hướng chiều sâu, gắn với thực hiện quy hoạch hình thành vùng sản xuất, nhất là thực hiện các cánh đồng mẫu lớn. Trên địa bàn thành phố có hơn 10 kênh tạo nguồn (kênh cấp 1), đến nay thành phố đã đầu tư nạo vét hơn phân nửa, từng bước đáp ứng được cơ bản cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, giao thông thủy. Trong đó, các kênh Thắng Lợi, Kênh Đứng đầu tư nạo vét năm 2011; kênh Thốt Nốt đang tiến hành nạo vét và hoàn thành trong 1-2 năm tới
Việc đầu tư nạo vét mỗi kênh cấp 1 khoảng vài chục tỉ đồng, riêng kênh Thốt Nốt đầu tư trên 180 tỉ đồng do kênh lớn và nạo vét sâu. Các kênh Thị Đội, Bà Chiêu, Ô Môn, các kênh KH
đang lập dự án để triển khai trong thời gian tới. Các kênh cấp 1 thành phố quản lý, thực hiện nạo vét theo chu kỳ trên 10 năm nạo vét một lần
Còn các kênh nhỏ do cấp quận, huyện quản lý, hàng năm tranh thủ nguồn cấp bù thủy lợi phí, kiên cố hóa kênh mương nạo vét phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân nông thôn, các nguồn này mỗi năm khoảng 30-40 tỉ đồng. Ngoài ra, các địa phương còn vận động dân làm thủy lợi mùa khô, tiến hành gia cố đê bao, nạo vét kênh nội đồng
Đến nay, hệ thống thủy lợi khép kín đạt trên 90% diện tích, đảm bảo cho sản xuất lúa hàng hóa của thành phố
Bài 3: Nhiều vấn đề khó đã phát sinh