Lợi dụng trong lúc đất nước đang thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị gia tăng hoạt động chống phá, xuyên tạc chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Thực tế đó đòi hỏi các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương phải kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái; coi đây là yêu cầu cấp bách, vừa mang tính lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Chính sách nhất quán, không gián đoạn
Việt Nam đang đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó một nội dung trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh, cấp xã). Đây là bước đi chiến lược nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, lợi dụng quá trình sắp xếp này, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng công nghệ thông tin phát triển, mạng xã hội có sức ảnh hưởng lớn, đã không ngừng tán phát các luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu khống, cho rằng việc tinh giản cán bộ, sáp nhập địa bàn dẫn đến bỏ rơi đồng bào tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa; rằng chính quyền địa phương mới sẽ siết chặt quyền tự do tôn giáo, thu hẹp không gian sinh hoạt tín ngưỡng; hạn chế tiếp cận các dịch vụ công, giáo dục, y tế. Không những thế, chúng còn dựng lên những bức tranh phiến diện, thiếu kiểm chứng về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường hợp tác quốc tế của Việt Nam, làm méo mó hình ảnh đất nước trong mắt bạn bè thế giới.
Chúng ta phải khẳng định rõ ràng rằng, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3-2-1930) đến nay, Đảng luôn xác định vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề chiến lược, hệ trọng trong sự nghiệp cách mạng. Quan điểm cốt lõi và xuyên suốt của Đảng là: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đồng thời kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó không chỉ là nguyên tắc về chính trị-tư tưởng mà còn được thể chế hóa thành chính sách pháp luật và tổ chức thực hiện nhất quán, chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở.
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ tại Điều 24: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là nền tảng pháp lý thể hiện sự nhất quán, tiến bộ trong việc khẳng định và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội khóa XIV thông qua năm 2016 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2018 là bước tiến dài trong việc thể chế hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, điều chỉnh toàn diện hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với đời sống tôn giáo đang phát triển ngày càng phong phú, đa dạng ở nước ta. Luật khẳng định: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền hiến định; công dân có quyền bày tỏ niềm tin, tham gia sinh hoạt tôn giáo, xây dựng cơ sở thờ tự, tổ chức lễ hội, đào tạo chức sắc... phù hợp với quy định của pháp luật.
.webp)
Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ. Ảnh minh họa: TTXVN
Thực tiễn cho thấy, Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt trong việc bảo đảm môi trường tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh, bình đẳng, đúng pháp luật. Theo thống kê của Bộ Dân tộc và Tôn giáo: Hiện nay, cả nước có hơn 27 triệu tín đồ, hơn 54.000 chức sắc, 144.000 chức việc và gần 30.000 cơ sở thờ tự, hơn 50.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó khoảng 3.000 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh là di sản thế giới, hàng chục trường đào tạo tôn giáo được cấp phép hoạt động...
Các hoạt động tín ngưỡng dân gian, lễ hội truyền thống, đạo giáo bản địa được gìn giữ, phát huy; đồng thời các tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện tham gia vào công tác xã hội, từ thiện, giáo dục đạo đức, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo được quan tâm, tạo điều kiện, góp phần quảng bá chủ trương, chính sách bảo đảm quyền tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta đến bạn bè quốc tế.
Đặc biệt, khi cả hệ thống chính trị triển khai thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, tinh gọn bộ máy, sắp xếp lại đơn vị hành chính, thì việc hoàn thiện và triển khai thật tốt các chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo vẫn tiếp tục được khẳng định là một trong những nội dung ưu tiên thực hiện. Từ Trung ương đến cấp tỉnh, cấp xã, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn đều nhấn mạnh yêu cầu không để xảy ra khoảng trống quản lý hay đứt gãy mối liên hệ giữa chính quyền và đồng bào có đạo do việc giảm đầu mối, sáp nhập đơn vị hành chính.
Các địa phương đã chủ động rà soát, cập nhật tình hình tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn mới sau sáp nhập; bổ sung cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm phù hợp; tổ chức tập huấn cho cán bộ về chính sách tôn giáo trong bối cảnh mới; duy trì cơ chế gặp gỡ, đối thoại định kỳ giữa chính quyền với chức sắc, chức việc tôn giáo để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc nảy sinh từ thực tiễn. Có thể thấy, chính sách nhất quán về tự do tín ngưỡng, tôn giáo không hề bị gián đoạn hay thu hẹp trong tiến trình đổi mới tổ chức bộ máy, mà ngược lại, càng được làm rõ hơn về trách nhiệm và phương thức thực hiện ở từng cấp chính quyền.
Thực tiễn này bác bỏ hoàn toàn những luận điệu cho rằng việc tinh giản bộ máy, giảm đầu mối đơn vị hành chính, thực hiện chính quyền địa phương hai cấp là “bỏ mặc đồng bào có đạo”, là “giảm khả năng bảo đảm quyền tín ngưỡng, tôn giáo của người dân”. Chính sách của Đảng, Nhà nước ta không hề thay đổi mà chỉ đổi mới phương thức tổ chức thực hiện, nâng cao hiệu quả quản lý, phục vụ nhân dân tốt hơn, trong đó có cộng đồng tín đồ tôn giáo.
Không khoan nhượng với luận điệu sai trái, bịa đặt
Tín ngưỡng, tôn giáo không giống như các lĩnh vực khác có thể nhanh chóng phản bác bằng số liệu hay quy chuẩn khách quan, những vấn đề liên quan đến tôn giáo thường bị bao phủ bởi cảm xúc và đám đông. Điều này khiến cho những tin giả, thông tin sai lệch của thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị dễ lan truyền và khó kiểm chứng trong thời gian ngắn. Những luận điệu đó nếu không được nhận diện và đấu tranh kịp thời sẽ tác động tiêu cực đến tâm lý cộng đồng tín đồ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta là yếu tố đặc biệt nguy hại cho cách mạng. Nếu chúng ta không cảnh giác, nhận diện đầy đủ và có biện pháp đấu tranh hiệu quả, thì từ một lĩnh vực vốn thuộc đời sống tinh thần, tôn giáo hoàn toàn có thể bị biến thành mảnh đất để gieo rắc những bất ổn, phá hoại thành quả cách mạng.
Bởi vậy, các cấp phải nhất quán quan điểm: Đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc về tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là yêu cầu về mặt tư tưởng - lý luận mà còn là một nhiệm vụ thiết thân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, tăng cường lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền địa phương.
Trước hết, ở cấp Trung ương, cần tiếp tục cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo bằng các văn bản pháp lý, quy phạm pháp luật sát thực tiễn, dễ thực hiện và đồng bộ giữa các lĩnh vực như: Tôn giáo, dân tộc, an ninh, hành chính công... Các ban, bộ, ngành chức năng phải kịp thời phát hiện và chủ động lên tiếng phản bác những luận điệu xuyên tạc trên không gian mạng, đồng thời đấu tranh tại các diễn đàn quốc tế bằng lập luận rõ ràng, bằng chứng cụ thể về chính sách đúng đắn và thành tựu thực tiễn của Việt Nam trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Cùng với đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách về tôn giáo cũng cần được tăng cường, chú trọng chiều sâu, bảo đảm tính kế thừa và nâng cao năng lực hội nhập, phản biện chính sách.
Cấp tỉnh cần chỉ đạo sát sao việc cập nhật dữ liệu tín đồ, cơ sở tôn giáo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý nhà nước về tôn giáo để tăng tính minh bạch, nhanh chóng tiếp nhận và xử lý thông tin từ cơ sở. Đặc biệt, cần chủ động tổ chức các buổi tiếp xúc, đối thoại giữa chính quyền với chức sắc tôn giáo, lắng nghe phản ánh từ thực tiễn để kịp thời tháo gỡ những điểm nghẽn hoặc các vấn đề nhạy cảm dễ bị thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc.
Ở cấp xã, nơi trực tiếp tiếp xúc với nhân dân và các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hằng ngày, việc phản bác các luận điệu sai trái càng cần thiết được đặt trong bối cảnh cụ thể, sinh động và thuyết phục. Đây chính là “mặt trận” quyết định sự thành bại trong công tác bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân. Do vậy, đội ngũ cán bộ cấp xã phải thực sự am hiểu địa bàn, nắm chắc tình hình tôn giáo, có kỹ năng tuyên truyền, vận động nhân dân, nhất là với đồng bào có đạo.
Trong bối cảnh cán bộ cấp xã ngày càng kiêm nhiệm nhiều việc, địa bàn quản lý mở rộng sau sáp nhập, càng cần có sự chủ động phân công, cơ cấu lại lực lượng theo hướng “ít nhưng tinh”, gắn trách nhiệm rõ ràng với từng địa bàn, từng dòng họ, từng giáo xứ, giáo họ, tăng cường phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức tôn giáo chính thống, các chức sắc có uy tín để “đi từng ngõ, gõ từng nhà”, kịp thời nắm bắt tư tưởng và định hướng dư luận.
Phản bác các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt về tự do tín ngưỡng, tôn giáo không là việc riêng của một ngành nào mà là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị. Các cấp, các ngành từ Trung ương tới địa phương cần tiếp tục làm tốt công tác hỗ trợ phát triển bền vững cho vùng đồng bào có đạo, bảo đảm tốt an sinh xã hội, nhất là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Cần coi việc xử lý hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc không chỉ là hành động bảo vệ pháp luật mà còn là bảo vệ niềm tin của nhân dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xuân Thành - Minh Đăng (Báo Quân đội Nhân dân)