* PGS. TS VŨ QUANG HIỂN
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tròn một thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi con tàu Amiral Latouche Tréville nhổ neo, rời bến cảng Sài Gòn đi Marseille, mang theo người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, lấy tên gọi Văn Ba, với tấm lòng yêu nước, thương dân và khát vọng cháy bỏng giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, bắt đầu cuộc hành trình đi tìm chân lý. Đó là lúc Tất Thành ở vào trạc tuổi 20, nhưng ý tưởng ra đi xuất hiện từ thuở thiếu thời, khi mới 13 tuổi và lần đầu tiên được đọc những chữ Pháp “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”.
1. Từ suy nghĩ ra đi tìm hiểu văn hóa phương Tây...
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho giàu lòng yêu nước, Nguyễn Tất Thành được học chữ Hán ngay từ lúc đến tuổi đi học, lên 10 tuổi đã được học từ thầy Vương Thúc Quý tư tưởng yêu nước thương dân và chí làm trai phải giúp ích cho đời, được biết về thời cuộc quan hệ tới sự sống còn của dân tộc qua những câu chuyện của những sĩ phu yêu nước thường lui tới nhà thầy và nhà thân phụ. Nguyễn Tất Thành có sự am tường về Nho giáo. Đó “không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Và trên cơ sở đó, người ta đưa ra khái niệm về “thế giới đại đồng”[1]. Nho giáo có những yếu tố tích cực, chủ trương “lấy dân làm gốc”, “phò đời giúp nước”, hành đạo giúp đời, coi “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, đề cao tinh thần phục vụ nhân dân, coi quan lại là công bộc của dân, nước bình trị là công của dân, còn nước không bình trị là lỗi của vua, chỉ mình vua bị trừng phạt[2]. Sau này, Hồ Chí Minh từng nhắc lại lời của Mạnh Tử: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, và cho rằng: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân... Trong xã hội không gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”[3].
Mang trong mình truyền thống văn hóa dân tộc, văn hóa phương Đông, nhưng ở Nguyễn Tất Thành không có sự loại trừ, hay mâu thuẫn với văn hóa phương Tây, mà bằng một trí tuệ văn hóa mở, Tất Thành sớm cảm nhận được sự phong phú của các nền văn hóa, hướng tới một thế giới năng động, đổi mới và sáng tạo. Lúc còn ở tuổi thiếu thời, khi bắt gặp văn hóa phương Tây, Tất Thành đã nảy sinh ý tưởng ra đi, đến tận nơi có khoa học kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do.
Khoảng tháng 9-1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh. Tại trường này, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với khẩu hiệu TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI. Sau này (năm 1923), Người kể lại với nhà văn Liên Xô Ôxíp Manđenxtam rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”[4].
Năm học 1908-1909, Nguyễn Tất Thành vào học Trường Quốc học Huế, cũng là lúc Tân thư của Trung Quốc được lưu hành ở nhiều nơi. Những tư tưởng cải cách của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu thức tỉnh những sĩ phu yêu nước. Nguyễn Tất Thành được học với những thầy giáo tân học như Lê Văn Miến, thường giành thời gian nói chuyện với học trò về nền dân chủ và văn minh phương Tây, kích thích lòng ham hiểu biết của học sinh. Nhờ ảnh hưởng của những thầy giáo tân học và sự tiếp xúc với báo chí tiến bộ, “ý muốn đi sang phương Tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại đã từng bước lớn dần lên trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành”[5].
Khi làm thầy giáo ở Trường Dục Thanh, Phan Thiết (1910), lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành được đọc Tân thư dịch sang chữ Hán trong gia đình cụ Nguyễn Thông, được tiếp cận với tư tưởng của những văn hào và triết gia Pháp đã khởi xướng các thuyết nhân quyền, dân quyền, tự do, bình đẳng, bác ái như J.J. Rousseau, Ch. De Montesquieu, Fr. Voltaire...
Với Nguyễn Tất Thành, những chữ: Tự do, Bình đẳng, Bác ái, lúc đó thật là mới mẻ, nhưng chưa thể hiểu nổi. Người muốn xem những thứ đó ở nước Pháp ra sao? Trả lời phỏng vấn của phóng viên Giôvanni Giécmanéttô (báo LUNITÀ của Đảng Cộng sản Italia), Nguyễn Ái Quốc nói: “Trước đây tôi có đọc một số tờ báo phát hành sang nước tôi, một vài tờ có tính chống đối ở An Nam, có những người lính lê dương do Poăngcarê (Poincaré) gửi sang để cải huấn. Những người lính lê dương này đọc đủ thứ, họ là những kẻ chống đối về bản chất. Họ cho tôi đọc các báo Pháp. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao và tôi đã tới Pari”[6].
Mặc dù chế độ thực dân, với những chính sách văn hóa giáo dục nô lệ, bưng bít những luồng tư tưởng tiến bộ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhưng không thể ngăn cản nổi những người yêu nước Việt Nam vượt qua lưới thép của kẻ thù để hướng tới một ánh sáng mới.
Trong bối cảnh đất nước và thời đại đầu thế kỷ XX, việc ra đi tìm một phương hướng cứu nước của Nguyễn Ái Quốc thể hiện sự mong muốn tiếp thu giá trị văn hoá nhân loại, là sự khởi động để làm cho cách mạng Việt Nam hội nhập vào các trào lưu cách mạng thế giới. Phải chăng đó cũng chính là nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Và như vậy, với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh văn hóa không phải là cái nhất thành bất biến, bản sắc văn hóa Việt Nam không phải là cái bất động, mà con người phải giữ nguyên lấy nó. Văn hóa dân tộc Việt Nam đã hình thành và phát triển trong những điều kiện khác nhau của lịch sử dựng nước và giữ nước, vốn là một nền văn hóa mở, đã từng du nhập các tôn giáo lớn và còn tiếp tục biến đổi trong sự giao lưu với các dân tộc khác, như một cơ thể sống cần thiết phải trao đổi với những giá trị văn hóa lúc đầu là cái khác với mình, nhưng vẫn luôn hiện hữu ở môi trường thế giới chung quanh.
Sự tích lũy và kết hợp những tinh hoa văn hóa dân tộc và thời đại, văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây là cơ sở để sau này Nguyễn Ái Quốc - con người “giàu quốc tế, đậm Việt Nam từng nét” - tiếp thu tư tưởng vô sản và làm thăng hoa tất cả những giá trị đó trong điều kiện xã hội thuộc địa, hình thành nên học thuyết cách mạng Hồ Chí Minh.
2. ... Đến một quyết định dũng cảm
Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã xây đắp nên một bảng giá trị tinh thần truyền thống như yêu nước, nhân nghĩa, anh hùng, đoàn kết, lạc quan, sáng tạo... trong đó chủ nghĩa yêu nước là giá trị cao nhất, là dòng chủ lưu xuyên suốt các thời đại lịch sử dân tộc, không ngừng phát triển qua những thử thách, trở thành chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng đầu bậc thang giá trị tinh thần truyền thống dân tộc, làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
Trong trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển không chỉ qua cuộc vật lộn với thiên nhiên, mà còn phải tiến hành nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giành và giữ nền độc lập, và thường phải đương đầu với những thế lực lớn mạnh nhất. Những thử thách khắc nghiệt đó đã “sản sinh ra một dân tộc có ý thức sâu sắc về bản sắc dân tộc mình và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, chống ngoại xâm”[7]. Các thế hệ anh hùng Việt Nam, tuy sinh ra trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều tiếp nối nhau bảo vệ nền độc lập và phát triển đất nước, cùng nhân dân tô đậm tinh thần yêu nước, đấu tranh bất khuất của dân tộc. “Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v.. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”[8].
Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, phong trào yêu nước chống Pháp liên tục phát triển theo những khuynh hướng chính trị khác nhau. Khi triều đình nhà Nguyễn còn chống giặc, thì nhân dân cùng quân đội triều đình đánh giặc. Cuối thế kỷ XIX, triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước Ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng đế quốc Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra sôi nổi.
Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, mở đầu bằng cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của Phan Đình phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913. Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
(Còn tiếp)
Theo TTXVN
---------------
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 1, tr. 477.
[2] Khổng Tử, Thượng thư (tức Kinh Thư), Bản dịch của Nhượng Tống: Mục Bàn Canh thượng, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 82.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 276.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 477.
[5] GS. Song Thành (chủ biên), Hồ Chí Minh Tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 46.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 480.
[7] W.J.Duiker, Ho Chi Minh a life, Hyperion, New York, America, 2000, tr. 11.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 171-172.