24/09/2011 - 09:59

Cần Thơ

Hướng đến mục tiêu thành phố công nghiệp

* NHÓM PV KINH TẾ

Bài 2: NHẬN DIỆN THÁCH THỨC

Thời gian qua, ngành công nghiệp (CN) TP Cần Thơ đạt được những thành tựu quan trọng, đặc biệt là tăng trưởng ngành ở mức khá cao. Song, theo nhận định của các ngành hữu quan, sự tăng trưởng này chưa xứng tầm với một thành phố trực thuộc Trung ương, đô thị trung tâm của vùng ĐBSCL. Bởi lẽ, chưa xét những yếu kém về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, hiện còn nhiều “lực cản” cho sự phát triển ngành, phát triển kinh tế của thành phố như: “đất sạch” cho nhà đầu tư, năng lực cạnh tranh sản phẩm CN yếu, thiếu ngành CN phụ trợ... Các “lực cản” này được “chỉ điểm” nhiều năm nay nhưng chưa có biện pháp giải quyết triệt để đã ảnh hưởng đến quá trình CN hóa, hiện đại hóa của thành phố.

”ĐẤT SẠCH” CHO NHÀ ĐẦU TƯ: NAN GIẢI

KCN Hưng Phú 2 (2A và 2B) còn nhiều khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, thiếu đất sạch cho nhà đầu tư. Ảnh: TUYẾT TRINH 

Với vị trí là trung tâm vùng ĐBSCL, đặc biệt, thời gian qua, nhiều công trình giao thông đã được hoàn thiện và đưa vào sử dụng như: cầu Cần Thơ, Cảng Hàng không Quốc tế Cần Thơ, Cảng Cái Cui, đường Nam Sông Hậu..., TP Cần Thơ được xem là tâm điểm hướng tới của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, thiếu “đất sạch” thu hút đầu tư đang là một lực cản cho phát triển CN, phát triển kinh tế.

TP Cần Thơ hiện có 8 khu CN (KCN) với tổng diện tích hơn 2.356 ha. Trong đó, KCN Hưng Phú 1, Hưng Phú 2A và Hưng Phú 2B đang gặp khó khăn về nguồn vốn đầu tư, giải phóng mặt bằng (GPMB) và tái định cư (TĐC). Cả 3 KCN này được quy hoạch xây dựng ở vị trí khá “đắc địa” của TP Cần Thơ: cách Cầu Cần Thơ và Trung tâm TP Cần Thơ khoảng 3km, gần Cảng Cái Cui..., có nhiều điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư. Nhưng do tiến độ xây dựng hạ tầng ở các KCN này diễn ra “cầm chừng”, gây nhiều bức xúc cho người dân trong vùng dự án, ảnh hưởng thu hút đầu tư. Ông Nguyễn Ngọc Hai, cư dân phường Phú Thứ, quận Cái Răng, cho biết: Gia đình ông có 3.700m2 đất (đất vườn và đất thổ cư) nằm trong quy hoạch KCN. Trước đây, gia đình ông làm rẫy và chăn nuôi (heo, bò, gà, vịt). Tuy nhiên, từ ngày đất nằm trong quy hoạch, nhà cửa, chuồng trại xuống cấp nhưng gia đình ông không dám sửa chữa, ruộng đất không dám canh tác. Ông Hai bức xúc: “Dự án này đã triển khai từ rất lâu, chính quyền địa phương cũng đã đo đạc, kiểm kê nhiều năm nay. Vậy mà đến bây giờ vẫn chưa cho người dân chỗ TĐC, ổn định cuộc sống”. Ông Phạm Văn Hùng, Phó Chủ tịch UBND phường Phú Thứ, quận Cái Răng, TP Cần Thơ, cho biết: Vấn đề đền bù giải tỏa trong dự án KCN Hưng Phú 1 và 2 hiện rất nan giải. Các chủ đầu tư dự án đền bù không đến nơi đến chốn, dẫn đến tình trạng “da beo”, ảnh hưởng đến cuộc sống, sản xuất của người dân. Một số hộ dân có nhu cầu thật sự về nhà ở cũng không được xây dựng, những hộ có hoàn cảnh gia đình khó khăn cũng không thể thế chấp nhà, đất để vay tiền ngân hàng phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống... Vì thế, không ít hộ dân tự ý xây dựng nhà không phép, sai phép; nhiều người “làm liều” bán đất bằng “giấy tay” hoặc tự thỏa thuận... gây khó khăn cho địa phương công tác quản lý.

Nguyên nhân của tình trạng trên do công tác bồi thường GPMB dự án ở các KCN gặp rất nhiều khó khăn. Giá cả thị trường tăng, chủ đầu tư phải chờ ý kiến thành phố giải quyết trong việc hỗ trợ trượt giá nhà, vật kiến trúc... Vì thế ảnh hưởng đến việc vận động các hộ dân nhận tiền, bàn giao mặt bằng. Giá đất bồi hoàn trong vùng dự án KCN chênh lệch so với dự án khác nên người dân có tâm lý so bì cũng làm cho tiến độ GPMB chậm. Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ sở hạ tầng khu TĐC cho các dự án KCN trên địa bàn thành phố chậm, ảnh hưởng đến việc bố trí TĐC cho người dân. Ngoài ra, lực lượng cho công tác bồi thường, hỗ trợ TĐC ở nhiều địa phương còn thiếu, chưa được đào tạo về nghiệp vụ chuyên môn khiến công việc thường xuyên quá tải, ảnh hưởng đến tiến độ GPMB, có “đất sạch” cho nhà đầu tư.

NĂNG LỰC CẠNH TRANH: THIẾU VÀ YẾU

Theo nhận định của ngành hữu quan, thời gian qua, khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm CN của TP Cần Thơ tuy được cải thiện, nhiều sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường quốc tế nhưng nhìn chung, năng lực cạnh tranh còn thấp. Sản phẩm CN xuất khẩu chưa có nhiều mặt hàng tinh chế, giá trị gia tăng cao mà chủ yếu ở dạng thô hoặc sơ chế, chưa có nhiều doanh nghiệp có khả năng sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng có giá trị gia tăng và công nghệ cao. Ông Phạm Hoàng Thắng, Chủ DNTN Nhựa Hoàng Thắng (phường Tân Hưng, quận Thốt Nốt), cho biết: “Thiếu vốn đang là “nút thắt” lớn nhất. Trước đây, các sản phẩm máy phục vụ nông nghiệp của Hoàng Thắng được lắp ráp với số lượng lớn và để sẵn trong kho. Khi khách hàng có nhu cầu, Hoàng Thắng luôn đáp ứng kịp thời, không hạn chế về số lượng. Tuy nhiên, khi lãi suất ngân hàng tăng và ở mức cao nên doanh nghiệp không thể duy trì cách thức hoạt động như trước. Ngoài ra, do thiếu vốn nên việc đầu tư máy móc, mặt bằng... để mở rộng sản xuất kinh doanh theo phương thức dây chuyền đành phải gác lại”. Đây cũng là thực trạng chung của nhiều doanh nghiệp hoạt động ngành CN ở Cần Thơ.

Theo Sở Công Thương TP Cần Thơ, vốn đầu tư cho ngành CN còn hạn chế, thường chỉ có những dự án đầu tư có quy mô vừa và nhỏ, chưa có dự án sản xuất CN quy mô lớn, công nghệ hiện đại. Thêm vào đó, các ngân hàng thường ưu tiên cho vay vốn lưu động, chưa mạnh dạn cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư để mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và công nghệ hiện đại trong khi nguồn vốn để doanh nghiệp tái đầu tư còn hạn chế. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, cũng như hạn chế năng lực cạnh tranh các sản phẩm CN trên thị trường trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp đều cho rằng, một khi thiếu năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp sẽ khó thu hút các hợp đồng cũng như bỏ lỡ chương trình hợp tác, đầu tư. Và nếu như vậy, doanh nghiệp khó thoát được cái vòng lẩn quẩn “thiếu vốn, năng lực cạnh tranh yếu; năng lực cạnh tranh yếu khó mở rộng thị trường, đẩy mạnh đầu tư”.

NGUYÊN PHỤ LIỆU: CHƯA ĐÁP ỨNG YÊU CẦU

Trong quá trình phát triển CN, nhất là CN chế biến, tuy TP Cần Thơ không có lợi thế so sánh về vùng nguyên liệu (thủy hải sản, lúa, trái cây...) nhưng nhờ khai thác tốt vị trí trung tâm vùng ĐBSCL, thế mạnh về giao thông thủy bộ nên các doanh nghiệp vẫn đảm bảo nguồn nguyên phụ liệu cho yêu cầu sản xuất. Trong đó có cả nguyên phụ liệu nhập khẩu phục vụ ngành may mặc, da thuộc, phôi thép... Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, TP Cần Thơ cần xem xét và có giải pháp hợp lý về nguồn nguyên liệu cho ngành CN phát triển. Bởi lẽ, thực trạng việc thu gom và nhập nguyên liệu cho sản xuất còn nhiều tồn tại. Điển hình như: giá nguyên liệu đầu vào khá cao; nguồn nguyên liệu thiếu tính ổn định, doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng bị động khi cây lúa, con cá, con tôm...thất mùa. Ông Lê Minh Trượng, Giám đốc Công ty Lương thực Sông Hậu, cho biết: Theo thông tin từ Sở Công thương TP Cần Thơ có khoảng 15-16 doanh nghiệp được cấp phép đủ điều kiện kinh doanh, xuất khẩu lúa gạo (theo Nghị định 109/2010/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo), trong khi các tỉnh khác số doanh nghiệp được cấp phép không nhiều. Điều đó có nghĩa, năng lực khai thác chế biến gạo xuất khẩu của TP Cần Thơ tương đối tốt. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngành gạo, vào mùa vụ phải đi khắp vùng ĐBSCL để thu mua lúa về chế biến gạo xuất khẩu. Vì vùng nguyên liệu lúa của TP Cần Thơ chưa đáp ứng yêu cầu cho xuất khẩu. Mặt khác, không chỉ có lúa, chất lượng nguyên liệu nông sản, kích cỡ không đồng đều, chưa đa dạng chủng loại, số lượng ít và không được sản xuất tập trung nên rất khó thu gom. Việc bảo quản sau thu hoạch ở TP Cần Thơ và cả vùng ĐBSCL thời gian qua chưa tốt, ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

CN phụ trợ là một trong những lĩnh vực quan trọng góp phần rất lớn trong việc tạo giá trị gia tăng cho ngành CN. Tuy nhiên, ông Tăng Hồng, Giám đốc DNTN Cơ khí Sông Hậu, cho rằng: Ngành CN phụ trợ đòi hỏi độ chi tiết, tinh xảo nên ít có doanh nghiệp tham gia. Trong khi đây là ngành đầu tư vốn lớn, nhưng lợi nhuận không cao, thu hồi vốn chậm, khó thu hút người vào nghề. Điển hình, trong ngành cơ khí, để sản xuất ra những sản phẩm hoàn chỉnh, đồng bộ với số lượng lớn, doanh nghiệp buộc phải đầu tư máy móc hiện đại. Song đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, để đầu tư máy móc phải bỏ ra hàng trăm triệu đồng đến hàng tỉ đồng trong khi lãi suất ngân hàng ở mức cao là việc làm không khả thi. Chính vì thế, dù ngành CN phụ trợ của thành phố có bước phát triển ở một số lĩnh vực như: sản xuất các linh kiện, phụ tùng, chi tiết máy cung cấp cho ngành đóng tàu, ôtô, xe máy, nhựa, điện - điện tử... nhưng còn yếu, nhỏ lẻ và manh mún. Phần lớn các sản phẩm CN phụ trợ được nhập khẩu từ nước ngoài nhưng do phí tổn vận chuyển, bảo hiểm, lưu kho... làm tăng chi phí đầu vào rất lớn trong sản phẩm CN chính.

(Còn tiếp)

Ông Võ Ngọc Hồ, Giám đốc Công ty TNHH MTV Xây dựng hạ tầng KCN Cần Thơ - chủ đầu tư KCN Hưng Phú 2B: Hiện nay, KCN Trà Nóc 2 còn khoảng 16ha “đất sạch” với giá cho thuê khoảng 40 USD/m2. Thời gian qua, nhiều nhà đầu tư đến tìm hiểu, trong đó có cả nhà đầu tư nước ngoài như: Đài Loan, Hàn Quốc... Tuy nhiên, mức giá khá cao làm nhà đầu tư e ngại.

Mức giá đền bù giải tỏa và chi phí đầu vào tăng như hiện nay ước tính giá đất CN tại KCN Hưng Phú 2B khoảng 100-120 USD/m2. Đây là mức giá khá cao so với các tỉnh thành lân cận như: Vĩnh Long, Hậu Giang... Để có hạ tầng KCN hoàn chỉnh và đảm bảo công tác TĐC, chủ đầu tư cần số vốn rất lớn, hàng ngàn tỉ đồng. Vì thế, doanh nghiệp GPMB một phần có “đất sạch” chờ nhà đầu tư đến thuê tạo nguồn vốn tiếp tục thực hiện GPMB phần còn lại. Tuy nhiên, giá đất cao, nhà đầu tư thuê đất thường thanh toán từng phần gây thêm nhiều khó khăn cho chủ đầu tư...

------------------

Bài 3: GIẢI PHÁP CHO NHỮNG YÊU CẦU CẤP BÁCH

Chia sẻ bài viết