02/05/2018 - 16:08

Đối ngoại quốc phòng Việt Nam, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình 

Trong các cuộc kháng chiến, đối ngoại là một mặt trận quan trọng. Hiệp định Geneve năm 1954 lập lại hòa bình ở miền Bắc; Hiệp định Paris năm 1973 buộc quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, tạo thế và lực để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc trong điều kiện mới, đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng (ĐNQP), trở thành kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Bài viết của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dưới đây nhằm làm rõ hơn về vấn đề này.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh gặp Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Song Young-moo trong chuyến tham dự Đối thoại Quốc phòng Seoul và Đối thoại chính sách quốc phòng Việt Nam - Hàn Quốc lần thứ 6, tháng 9/2017. (ảnh: Yên Ba)

Kỳ 1: Đặc trưng của đối ngoại quốc phòng

Nhìn về lịch sử, từ thời chống phong kiến phương Bắc, dân tộc Việt đã coi đối ngoại là một mặt trận. Thế kỷ 11, sau khi đánh tan giặc Tống ở bờ Bắc sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt vẫn chủ động cử người sang thuyết phục Quách Quỳ rút hết quân. Sau đó, nhà Lý tiếp tục đấu tranh ngoại giao đòi lại châu Quảng Nguyên. Thời Trần, khi quân Nguyên thất bại, ta vẫn cấp ngựa, cấp thuyền cho họ về nước. Sứ thần nhà Trần đã kiên trì, mềm dẻo đấu tranh ngoại giao, góp phần khiến nhà Nguyên phải ngừng hẳn cuộc chiến. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, bên cạnh đòn quân sự là cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì, khéo léo, thực hiện chiến lược “công tâm có sức mạnh bằng mười vạn quân” làm tan rã tinh thần chiến đấu của quân giặc. Sau khi đánh thắng quân xâm lược, Lê Lợi cấp ngựa, xe, lương thực, “trải thảm đỏ cho bại binh nhà Minh rút hết về nước”, nhằm tạo dựng quan hệ hòa hiếu, hòa bình lâu dài. Trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh, Nguyễn Huệ hiểu rằng: “Nước Thanh lớn hơn nước ta mười lần... nếu thắng chúng trận này, nhất định chúng sẽ ôm hận trả thù...”. Vì thế, Ngô Thì Nhậm được giao trọng trách đấu tranh ngoại giao khéo léo, cùng với tiến công quân sự, khiến vua Càn Long phải bãi binh, công nhận phong vương cho Nguyễn Huệ.

Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước. Trước ý đồ xâm lược của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tận dụng mọi biện pháp ngoại giao cố tránh chiến tranh; kiên trì đàm phán ký kết Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp (6/3/1946), Tạm ước Việt - Pháp (14/9/1946) để duy trì hòa bình, đồng thời có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài giành độc lập dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngoại giao Việt Nam đã được sự giúp đỡ to lớn, hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, của chính nhân dân Mỹ. Với Mỹ, chúng ta thực hiện phương châm “vừa đánh vừa đàm”, tiến hành cuộc đấu tranh ngoại giao kéo dài gần 5 năm (5/1968 - 1/1973), ký kết Hiệp định Paris, buộc quân Mỹ “rút lui trong danh dự” khỏi Việt Nam, tạo điều kiện giành thắng lợi hoàn toàn, hạn chế tối đa tổn thất của ta.

Như vậy trong thời bình, ngoại giao là một hoạt động quan trọng để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc. Khi buộc phải chiến đấu, chúng ta chủ động kết hợp đấu tranh chính trị, ngoại giao với đấu tranh quân sự, làm sáng tỏ chính nghĩa, tăng cường đoàn kết quốc tế, phối hợp chặt chẽ với các nước anh em cùng chung chiến hào, chung lợi ích, thiết lập hậu phương quốc tế rộng rãi cho cuộc kháng chiến, cô lập kẻ thù. Khi mặt trận quân sự giành được thắng lợi quyết định, quân địch đã suy yếu, thế chiến lược không thể đảo ngược, ta chủ động hình thành thế trận ngoại giao để tiến công địch nhằm kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất, kiến tạo hòa bình, hạn chế tối đa tổn thất cho ta, tạo điều kiện ngăn ngừa chiến tranh tiếp diễn. Đó là những bài học vô cùng quý giá cần được kế thừa, phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh chứng kiến lễ ký một văn kiện hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ tại Lầu Năm Góc, tháng 10/2017. (ảnh: Yên Ba)

Để kế thừa, phát huy truyền thống đó cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc về đối ngoại, trong đó có ĐNQP. Với tư duy mới, thông qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận, nhận thức về ĐNQP ngày càng đầy đủ hơn. Theo đó, ĐNQP là bộ phận, kênh đối ngoại quan trọng; tổng thể các hoạt động, biện pháp hòa bình nhằm thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại, chính sách quốc phòng trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia gìn giữ hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới. ĐNQP không phải là công tác đối ngoại đơn thuần của Bộ Quốc phòng, quân đội mà bao gồm các hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực quốc phòng với các nước, các tổ chức quốc tế, liên quan đến độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam và an ninh, hòa bình của khu vực, thế giới; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Chính phủ, trực tiếp, thường xuyên là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng.

ĐNQP là một thành tố quan trọng của đối ngoại quốc gia, với những đặc trưng: Một là, vừa hợp tác, vừa đấu tranh để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, lợi ích quốc gia - dân tộc; hai là, góp phần bảo vệ hòa bình, tạo môi trường thuận lợi, tranh thủ điều kiện quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước; ba là góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; bốn là tranh thủ điều kiện từ bên ngoài để xây dựng quân đội.

Kỳ 2: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”

Trong nền ngoại giao toàn diện Việt Nam, ngoại giao chính trị, kinh tế, văn hóa và đối ngoại quốc phòng (ĐNQP), an ninh là các trụ cột. Mục đích, quan điểm chỉ đạo và đặc trưng của ĐNQP là: “Kế sách bảo vệ Tổ quốc từ xa bằng biện pháp hòa bình” [1]. Để thực hiện mục đích, quan điểm chỉ đạo nêu trên, cần làm tốt các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Một là nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa thực lực đất nước và đối ngoại, xây dựng sức mạnh tổng hợp, tạo nền tảng vững chắc để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Đối ngoại phải có nghệ thuật, nhưng không phải chủ yếu dựa vào tài khéo léo trong giao thiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, người khai sinh ra nền đối ngoại Việt Nam - đã nói rất sinh động về mối quan hệ đó: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” [2]. Nghị quyết của Đảng ngay từ những năm 1941 - 1945 đã nhấn mạnh vai trò của thực lực trong quan hệ với các nước, nhất là với nước lớn: “Chú ý rằng: Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy” [3]. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ta giành thắng lợi quân sự ở Điện Biên Phủ, nhưng Hiệp định Geneve vẫn bị chi phối bởi ý đồ chiến lược của các nước lớn.

Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước lớn mạnh hơn nhiều, ta chủ động mở thế trận ngoại giao, trực tiếp đàm phán với Mỹ về các điều khoản của Hiệp định Paris. Tuy cố tình kéo dài, lật lọng, nhưng trước các đòn tiến công quân sự ở chiến trường miền Nam, thắng lợi của “Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972 ở Hà Nội và sự ủng hộ của quốc tế, Mỹ buộc phải chấp nhận ký Hiệp định Paris, rút quân vô điều kiện khỏi Việt Nam. Trong thời đại hội nhập quốc tế, thực lực đất nước còn bao gồm cả vị thế, uy tín quốc tế, thể hiện qua các quan hệ song phương, đa phương và sự đóng góp của Việt Nam cho các hoạt động, tổ chức quốc tế vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Để tạo sức mạnh cho đối ngoại nói chung, ĐNQP nói riêng, thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, cần tiến hành đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp nhằm bảo đảm: “Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn bớt thù”.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh thăm đơn vị Hải quân Hàn Quốc nhân dịp dự Đối thoại Quốc phòng Seoul và Đối thoại Chính sách quốc phòng Việt Nam - Hàn Quốc lần thứ 6, tháng 9/2017. (ảnh: Yên Ba)

Hai là thực hiện linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả các nguyên tắc, phương châm đối ngoại trong điều kiện mới. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, mà cái bất biến là lợi ích quốc gia - dân tộc, độc lập, tự chủ, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, để ứng phó với diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình và quan hệ quốc tế. Hiện nay, các nước luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu, làm nảy sinh những bất đồng, sự khác biệt về lợi ích. Chúng ta cần xử lý linh hoạt, phù hợp vấn đề lợi ích quốc gia - dân tộc theo nguyên tắc, phương châm: Kiên định bảo vệ lợi ích sống còn (độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, hòa bình, an ninh…), tranh thủ tối đa các lợi ích phát triển (môi trường, điều kiện phát triển đất nước…), hài hòa giữa lợi ích trước mắt và lâu dài, giữa lợi ích của Việt Nam với lợi ích của các nước, lợi ích chung của khu vực, thế giới, phù hợp với luật pháp quốc tế. ĐNQP tuân thủ đường lối, chính sách đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng: Không tham gia liên minh quân sự, không đi với nước này chống lại nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam; đồng thời xây dựng, củng cố quan hệ với các đối tác, nhất là đối tác chiến lược, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế rộng rãi, tăng cường khả năng ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh và đối phó có hiệu quả với các tình huống quốc phòng, chiến tranh.

Ba là vừa hợp tác, vừa đấu tranh, lấy hợp tác làm nền tảng, đấu tranh bằng biện pháp phi vũ trang là chủ yếu. Hợp tác khai thác, phát huy cao nhất mặt đồng thuận, tạo cơ sở để xây dựng lòng tin, thực hiện “cùng thắng, cùng có lợi”, hạn chế, hóa giải mâu thuẫn, đối đầu. Đấu tranh phi vũ trang nhằm thực hiện mục tiêu đề ra, kiềm chế không để bùng phát thành xung đột vũ trang, chiến tranh. Giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp chủ quyền biên giới, biển, đảo bằng đấu tranh ngoại giao, pháp lý, tuyên truyền... sẽ kéo dài, nhưng là phương thức đỡ tổn thất nhất. Do đó, cần kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, xử lý linh hoạt các tình huống phức tạp, nhạy cảm trên biên giới, biển, đảo, trong quan hệ quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh gặp Thượng Nghị sĩ Mỹ Patrick Leahy tại Washington, tháng 10/2017. (ảnh: Yên Ba)

Bốn là kết hợp chặt chẽ phương thức đối ngoại song phương và đa phương. Đẩy mạnh ĐNQP song phương, đưa quan hệ quốc phòng với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất, ổn định và bền vững, góp phần tạo sự đồng thuận trong quan hệ đa phương ở khu vực, thế giới. Quan hệ, hợp tác quốc phòng toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các nước láng giềng, đối tác chiến lược, các nước trong khu vực và các nước bạn bè truyền thống, phù hợp với quan hệ chính trị và nhu cầu, khả năng của đất nước, quân đội. Vận dụng đa dạng các hình thức, biện pháp: Đối ngoại chính sách, chiến lược quốc phòng, hợp tác đào tạo, khoa học công nghệ, công nghiệp quốc phòng... Đẩy mạnh ĐNQP đa phương góp phần tạo vị thế, vai trò cao hơn cho Việt Nam trong định hình, dẫn dắt một số vấn đề chung của khu vực, thể hiện trách nhiệm đối với an ninh, hòa bình, ổn định của thế giới, hỗ trợ giải quyết vướng mắc trong quan hệ song phương. Tích cực tham gia Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+); tham gia ngày càng sâu hơn vào các diễn đàn của Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu (EU) và diễn đàn quốc phòng, an ninh khu vực, liên khu vực; tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc với mức độ cao hơn về quy mô phân đội quân y, công binh…

Năm là phát huy và nâng cao hiệu quả ĐNQP biên giới, tăng cường quan hệ với các nước láng giềng Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia. Trên cơ sở Tuyên bố chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước và văn kiện “Tầm nhìn chiến lược quốc phòng Việt Nam - Trung Quốc năm 2017”, đẩy mạnh công tác ĐNQP bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú, thiết thực, hiệu quả. Trong đó, giao lưu quốc phòng hữu nghị biên giới là đặc thù, điểm sáng. Trải qua 4 lần tổ chức, sự tham gia của lãnh đạo cấp cao Quân đội Trung Quốc từ Thứ trưởng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc cho thấy ý nghĩa, tầm quan trọng của giao lưu quốc phòng hữu nghị biên giới, cũng là biểu tượng cho mối quan hệ láng giềng Việt - Trung. Nội dung, hoạt động giao lưu ngày càng mở rộng, thiết thực, hiệu quả hơn: Trao đổi, hội đàm, sơ kết hoạt động kết nghĩa, diễn tập chung... với sự tham gia của cấp ủy, chính quyền, các ngành và nhân dân địa phương, góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, để tập trung giải quyết vấn đề trên biển, ngăn ngừa xung đột, tạo điều kiện phát triển quan hệ hợp tác giữa các địa phương biên giới hai nước. Từ giao lưu quốc phòng hữu nghị biên giới trên bộ với Trung Quốc, cần tổng kết, phát huy, mở rộng ra với Lào, Cam-pu-chia và một số nước ASEAN. Đối với những tranh chấp chủ quyền biển, đảo, trên cơ sở thỏa thuận chính trị, lợi ích chiến lược chung, lâu dài, luật pháp quốc tế, quy tắc ứng xử của khu vực, duy trì đối thoại, hợp tác, xây dựng cơ chế kiểm soát, ngăn ngừa xung đột, kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, không để bùng phát thành chiến tranh. Tăng cường, củng cố quan hệ, hợp tác giữa Việt Nam với Lào, Cam-pu-chia, trong đó hợp tác quốc phòng là một trong những trụ cột, là điều kiện để ba nước ổn định và phát triển, nhằm giữ vững vị thế, vai trò của Việt Nam, hạn chế tác động tiêu cực từ bên ngoài đến quan hệ giữa Việt Nam với bạn. Triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên hợp tác đào tạo, tuyên truyền, trao đổi, tham vấn với bạn trong các cơ chế hợp tác đa phương, nhất là trong khuôn khổ ASEAN.

Sáu là huy động rộng rãi các lực lượng tham gia ĐNQP. Lấy lực lượng chuyên trách của Bộ Quốc phòng làm nòng cốt, phối hợp chặt chẽ với các Ban, Bộ, ngành Trung ương, địa phương và nhân dân, tiến hành hoạt động đối ngoại bằng các hình thức, biện pháp phù hợp, sáng tạo. Trong giao lưu quốc phòng hữu nghị biên giới, lực lượng Bộ đội Biên phòng, quân khu cần kết hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, các ngành và nhân dân địa phương để bảo đảm cho các hoạt động diễn ra an toàn, thiết thực, hiệu quả. Trong nội bộ quân đội, phát huy vai trò của các cơ quan chuyên trách, như: Cục Đối Ngoại, Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam, Viện Quan hệ quốc tế về quốc phòng… đồng thời bồi dưỡng về ngoại ngữ, chuyên môn, để mỗi cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm nhiệm vụ trên tuyến biên giới, biển, đảo tham gia hoạt động đối ngoại, trở thành những sứ giả, đại diện cho hình ảnh của đất nước, quân đội đối với bạn bè quốc tế.

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ rất cao, đòi hỏi phải tiếp tục vận dụng, phát huy truyền thống, đổi mới tư duy, hành động, quyết tâm thực hiện thắng lợi quan điểm, phương châm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình và ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác ĐNQP, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và xây dựng quân đội ngày một vững mạnh” [4].

------------------------------------

[1]- Quân ủy Trung ương, Nghị quyết về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

[2]- Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2009, t.4, tr.126.

[3]- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2000, t.7, tr.244.

[4]- Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Quân chính năm 2017.

Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (nguồn: Báo QĐND)

Chia sẻ bài viết