Chiến dịch Điện Biên Phủ (ĐBP) được mở màn từ ngày 13-3-1954, trải qua 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng và mưu trí, quân dân Việt Nam đã giành thắng lợi vào chiều 7-5-1954. Đây chẳng những là thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam Anh hùng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà còn là thắng lợi của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới.
Sự kiện lịch sử trọng đại này đã tạo ra một chấn động sâu sắc khắp năm châu, có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với cách mạng Việt Nam mà còn đối với cả cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Kể từ khi diễn ra sự kiện này cho đến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng ĐBP vẫn là đề tài được dư luận trong nước và thế giới quan tâm, và những dư âm của cái tên ĐBP vẫn còn mãi vang vọng.
J.Roa, một ký giả phương Tây đã viết: “Trên toàn thế giới, trận Oa-téc-lô cũng ít có tiếng vang hơn. ĐBP thất thủ đang gây ra một sự kinh hoàng ghê gớm. Đó là một trong những thất bại lớn của phương Tây, báo hiệu sự tan rã của các thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hòa. Tiếng sấm của sự kiện ĐBP vẫn còn đang âm vang”(1). ĐBP là thất bại đau đớn và kinh hoàng nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương do chúng gây ra.
 |
Lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh được trang hoàng trên chiếc xe tăng 18 tấn vừa thu được của địch diễu hành mừng chiến thắng tại Điện Biên Phủ trong tiếng reo hò vang dậy của bộ đội, dân công và nhân dân các dân tộc Điện Biên.
Ảnh: Điện Biên Phủ hình ảnh và sự kiện - NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh |
Lịch sử 55 năm sau chiến thắng ĐBP đến nay đã minh chứng điều đó. Đối với thực dân Pháp xâm lược, thắng lợi ĐBP của quân dân Việt Nam thật sự là một tấn thảm kịch đối với chúng. Tin ĐBP thất thủ đến Paris vào lúc 13 giờ 42 phút ngày 8-5-1954, “qua một bức điện ngắn ngủi ba dòng lan nhanh như một vệt thuốc súng”. Đến 16 giờ, Thủ tướng Pháp La-ni-en lật đật chạy đến điện Buốc-bông (Quốc hội) để thông báo tình hình. “... Mặc quần áo tang đen, nét mặt co rúm vì xúc động, ông La-ni-en nặng nề bước lên các bậc của diễn đàn. Tất cả các nghị sĩ đứng dậy trong không khí im lặng nặng nề... Người ta nghe tiếng nói của La-ni-en như tiếng khóc nức nở của một thiếu phụ chốn xa xăm nào đó”(2). Ngay trong ngày bi thảm ấy của nước Pháp, Thủ tướng Pháp La-ni-en đã ra lệnh cho các công sở trên toàn nước Pháp treo cờ rủ. Hôm sau, ngày 9-5, do quá hoảng loạn trước thất bại ĐBP, Chính phủ Pháp ra lệnh thiết quân lệnh ở Thủ đô Paris. Dư luận Pháp đã kịch liệt phản đối hành động này của Chính phủ.
Do tác động của ĐBP, ngày 11-5-1954, “Hội đồng chính phủ Pháp đã họp một phiên bi thảm nhất của nước Pháp, kể từ tháng 5-1940” (khi Pháp đầu hàng phát-xít Đức). “Một bầu trời xám ngắt mầu chì, nặng trĩu mây giông đè lên thành phố Paris. Đó là ngày thứ ba 11-5-1954. Tại Quốc hội, Thủ tướng La-ni-en thu mình trong chiếc ghế dành cho Chính phủ, nín thinh nghe nghị sĩ Mít-tơ-răng dồn dập chất vấn việc mất ĐBP...”(3). Người ta xếp thất bại này ngang với những thất bại lớn mà nước Pháp từng gánh chịu trong lịch sử, những thất bại có tính chất quyết định đối với số phận một đế quốc, một đế chế. Với Pháp, đây là “một sự thất bại hoàn toàn... Nếu người ta nói đến sự thất thủ của ĐBP thì phải gọi đúng tên của nó: Đó là một sự đầu hàng”(4).
Năm 2004, học giả R.Phrăng, Trường đại học Tổng hợp Păng-tê-ông - Soóc-bon Paris 1, Pháp, trong cuộc Hội thảo “ĐBP - 50 năm nhìn lại” do Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường đại học Păng-tê-ông - Soóc-bon Paris 1 tổ chức, nhận định: “Âm vang về ĐBP như là tiếng sấm trên bầu trời Pháp... ĐBP quả thực được xem như là một sự thất bại và cũng là sự phá sản của nước Pháp”(5). Học giả J.C.Rô-mê, Đại học Tổng hợp Stra-bua III, Chủ nhiệm CEHD, Pháp, cho rằng với trận ĐBP, năm 1954 trở thành “một năm thay đổi cục diện... Năm 1954 quả là một năm quan trọng đối với lịch sử nước Pháp và lịch sử Việt Nam. Nhưng vượt ra khỏi phạm vi của mảnh đất thuộc địa này, người ta còn coi đây là năm bản lề trong lịch sử xung đột Đông - Tây và trong lịch sử quan hệ quốc tế nói chung. Do nhiều yếu tố khác nhau, thế cân bằng lực lượng bị biến đổi từ 1954 và cả những năm sau nữa”(6). Bởi vì, chiến thắng ĐBP đã làm đảo lộn chính sách thuộc địa của thực dân Pháp. Trước đây, chúng đặt ra cái gọi là Liên hiệp Pháp làm khuôn khổ cho nền thống trị Pháp đối với các thuộc địa. Sau thất bại ở ĐBP, năm 1958, Pháp lập ra một tổ chức mới gọi là Cộng đồng Pháp với một quy chế tôn trọng quyền của các dân tộc và quyền tự trị cao hơn. Để xoa dịu dư luận thế giới cũng như để đối phó với làn sóng đấu tranh đang dâng lên mạnh mẽ ở các thuộc địa, Pháp buộc phải công bố “quyền tự trị” hoặc trao trả độc lập cho nhiều nước ở châu Phi, trước tiên là các nước Bắc Phi.
Không chỉ với Pháp, ĐBP còn là đòn nặng nề giáng vào đế quốc Mỹ, kẻ đã can thiệp sâu sắc vào cuộc chiến của Pháp ở Đông Dương. “Tin ĐBP hấp hối đến với Mỹ trong ngày thứ sáu. Sáng và chiều, chính phủ, báo chí, dư luận tự hỏi một khi ĐBP thất thủ, chuyện gì sẽ xảy ra. Người ta dự đoán một cách lộn xộn là chính phủ La-ni-en đổ, Bi-đôn từ chức, một cuộc khủng hoảng chính trị không có lối thoát, sự xuất hiện một chính phủ trung lập ở nước Pháp, sự “ngừng bắn” bằng bất cứ giá nào, sự đầu hàng của quân đội viễn chinh ở đồng bằng. Đằng sau sự sụp đổ của ĐBP có những dự đoán tối tăm và những giả thuyết còn khiến cho người ta nản lòng hơn là những sự thật phũ phàng nhất... ĐBP thất thủ, việc đầu tiên của Tổng thống Ai-xen-hao là triệu tập ngay Hội đồng an ninh quốc gia vào hôm sau, thứ bảy, hồi 8 giờ 30. Cuộc triệu tập này đã vi phạm cả tính chất thiêng liêng của việc nghỉ cuối tuần”(7). Điều đó cho thấy tác động to lớn của ĐBP.
Thậm chí, khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, những ký ức về một thất bại cay đắng vẫn còn trỗi dậy mạnh mẽ và danh từ ĐBP vẫn là chủ đề của báo chí phương Tây. Năm 1968, toàn bộ báo chí Pháp đều nhắc đến lời của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn “Tôi không muốn một ĐBP”. Ký giả J.C.Pô-mông-ti khi thuật lại một trận đánh ở Kon Tum năm 1972 trên tờ Lơ Mông đã đặt tên cho bài báo của mình là “Ních-xơn muốn phòng ngừa một ĐBP của Mỹ”(8). Và khi quân Mỹ bị đánh tơi bời ở Khe Sanh, nhiều người cũng đã liên tưởng đến Khe Sanh như là một ĐBP của Mỹ.
Đối với phong trào hòa bình và giải phóng dân tộc trên thế giới, âm vang của chiến thắng ĐBP có tác động và ảnh hưởng to lớn, là niềm tự hào chung của cả nhân loại tiến bộ, tấm gương sáng cho cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của các nước Á, Phi, Mỹ la-tinh. Các đồng chí Liên Xô (trước đây) nêu rõ: “... ĐBP là một trang rực rỡ nhất, không những của nhân dân Việt Nam mà còn của tất cả các dân tộc bị áp bức đang đấu tranh cho tự do và độc lập”(9). Đồng chí U.Phao-xtơ, Chủ tịch Đảng Cộng sản Mỹ, đánh giá ý nghĩa to lớn của chiến thắng ĐBP: “Nhân dân các nước Á - Phi đã nhận thức một cách rõ ràng ý nghĩa chân thực của sự kiện trọng đại đã phát sinh ở ĐBP. Họ vui mừng phấn khởi về những thắng lợi của Quân đội nhân dân Việt Nam và cho rằng, đấy là một thắng lợi vô cùng to lớn của toàn thể nhân dân thế giới đối với chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ. Chiến thắng ĐBP là sự cổ vũ vô cùng to lớn cho các lực lượng đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa... Giải phóng ĐBP là thắng lợi hết sức quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh cho tự do và hòa bình thế giới”(10).
Chiến thắng ĐBP là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là sự cổ vũ vô cùng to lớn cho các lực lượng đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, đánh dấu một chặng đường mới trên con đường giải phóng các dân tộc châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh. Chiến thắng ĐBP đã giáng một đòn sấm sét vào chủ nghĩa đế quốc quốc tế nói chung và dẫn tới tan rã toàn bộ khối thuộc địa rộng lớn của đế quốc Pháp. An-giê-ri là thuộc địa đầu tiên của Pháp nổi dậy sau ĐBP như một phản ứng dây chuyền. “ĐBP đã điểm tiếng chuông báo giờ chết của chủ nghĩa thực dân Pháp không những ở Việt Nam mà cả ở bộ phận còn lại của khối thuộc địa của nó. Nhân dân nước chúng tôi đã đón thắng lợi ĐBP với một niềm vui to lớn khác nào như thắng lợi của bản thân mình. Nhân dân An-giê-ri được khuyến khích bởi thất bại quân sự của chủ nghĩa đế quốc Pháp ở ĐBP và được kinh nghiệm của cuộc đấu tranh vũ trang thắng lợi của các đồng chí soi sáng đã mau chóng cầm vũ khí đấu tranh để chấm dứt chế độ thuộc địa mà họ phải chịu từ 125 năm nay...”(11).
Tại châu Á, nhân dân các nước bị áp bức đã coi chiến thắng ĐBP là một sự kiện có ý nghĩa lớn lao và sâu sắc đối với sự nghiệp đấu tranh của mình. Những người cộng sản In-đô-nê-xi-a coi “thắng lợi của nhân dân Việt Nam không những là một nguồn cổ vũ khuyến khích nhân dân Á, Phi trong cuộc đấu tranh chống nền thống trị của đế quốc mà còn làm suy yếu ngay lực lượng của chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của họ. Chiến thắng lịch sử vĩ đại của Quân đội nhân dân Việt Nam đã đập tan quân đội hiện đại và hùng mạnh của thực dân Pháp trong trận ĐBP là một bài học chứng minh cho toàn thế giới thấy rằng, lực lượng của bọn đế quốc tuy có vẻ ghê gớm và hùng hổ nhưng thực ra lực lượng của nhân dân có thể hoàn toàn đánh bại và đập tan được chúng”(12). Ấn Độ vừa thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Anh nhưng nhân dân Ấn Độ vẫn coi chiến thắng ĐBP là nguồn cổ vũ lớn lao, giúp họ thêm tin tưởng vào tương lai của mình...
Cùng chung chiến hào chống kẻ thù chung, chiến thắng ĐBP có tác động to lớn đối với cuộc cách mạng của nhân dân Lào và Cam-pu-chia. Hoàng thân Xu-pha-nu-vông, Chủ tịch Chính phủ kháng chiến Pa-thét Lào viết: “Quân dân Lào vô cùng phấn khởi và tin tưởng ở thắng lợi của các Bạn, coi đó là những thắng lợi của bản thân mình. Chiến thắng ĐBP có ảnh hưởng và giá trị vô cùng to lớn đối với cuộc kháng chiến chung của ba nước Việt - Khmer - Lào và đối với phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới hiện nay”. Đại biểu Khmer cũng cho rằng, thắng lợi ĐBP “có ảnh hưởng rất lớn đến chiến trường Khmer”(13).
Ở châu Mỹ La-tinh, “cái sân sau” của đế quốc Mỹ, nơi mà do bị cách biệt với các lục địa khác bởi hai đại dương, nên hình như mọi sự kiện xảy ra trên thế giới rất khó lan đến tận đây, thế mà tin chiến thắng ĐBP của một Việt Nam Anh hùng vẫn dấy lên trong họ những tình cảm cách mạng sôi sục. Một đại biểu Argentina tham dự Đại hội Hòa bình thế giới Hen-xin-ki tháng 6-1955 đã nói lên điều đó với đại biểu Việt Nam: “Xin thú thật với các bạn là nước chúng tôi ở cách xa Việt Nam hàng vạn cây số nên có nhiều người trước kia không biết gì về Việt Nam, thậm chí cái tên Việt Nam cũng không biết nữa. Nhưng ngày nay thì những người đó ít nhất cũng biết Việt Nam là gì. Đó là Việt Nam - Hồ Chí Minh, Việt Nam - Điện Biên Phủ”(14). Chiến thắng ĐBP vang dội đến tận Ha-i-ti giữa Thái Bình Dương, nhân dân Ha-i-ti coi “chiến thắng ĐBP có một tầm quan trọng lịch sử quốc tế và đã mở ra một giai đoạn mới trong cuộc đấu tranh anh hùng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm tự giải phóng khỏi ách của chủ nghĩa đế quốc Anh, Pháp, Bỉ và Mỹ. Tinh thần ĐBP ngày nay là ánh đèn pha chiếu rọi cho hàng triệu người bị áp bức trên phạm vi toàn thế giới...”(15). Và đặc biệt, nhân dân Cu-ba coi tinh thần ĐBP như một niềm hy vọng to lớn và tươi sáng, thật sự góp phần vào thắng lợi của cách mạng Cu-ba, đột phá một cửa mở đầu tiên vào hệ thống nửa thuộc địa của đế quốc Bắc Mỹ ở châu Mỹ la-tinh. ĐBP là thắng lợi của cả nhân loại tiến bộ...
Với dân tộc Việt Nam, chiến thắng lịch sử ĐBP năm 1954 là sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của dân tộc ta trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc. Đó là bản anh hùng ca bất tử của cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ, xứng đáng “Được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”(16). Tiếp nối truyền thống và chiến công vang dội ĐBP, quân dân Việt Nam lại tiếp tục làm nên những chiến thắng Vạn Tường, Ấp Bắc, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, trận “ĐBP trên không” tháng Chạp năm 1972 và Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
55 năm qua, chiến thắng ĐBP là nguồn cổ vũ lớn lao cho toàn thể nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt tinh thần đoàn kết dân tộc, tự lực tự cường, tự chủ và ý chí quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta đã, đang và sẽ còn vang mãi đối với nhiều thế hệ người Việt Nam và sẽ trường tồn với lịch sử dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước hiện nay, Đảng ta luôn phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân, thể hiện qua quá trình hơn 78 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, trong đó có tinh thần đoàn kết được thể hiện trong chiến thắng ĐBP để chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chiến thắng ĐBP đã, đang và sẽ còn vang mãi.
Thạc sĩ LÊ VĂN CỪ
(Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)
Theo Báo Nhân Dân