25/03/2016 - 20:30

DẤU HIỆU HẬU QUẢ “LY HÔN” CỦA CẤU THÀNH TỘI PHẠM TỘI VI PHẠM CHẾ ĐỘ MỘT VỢ, MỘT CHỒNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

 Tiến sĩ PHẠM VĂN BEO
Trưởng Bộ môn Luật Tư pháp – Khoa Luật – ĐHCT

Gần đây, rất nhiều quan điểm đã bày tỏ trên cộng đồng mạng xoay quanh nội dung "ngoại tình có thể bị phạt tù" theo quy định của Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015. Trong đó, một số quan điểm đồng tình vì cho rằng như thế sẽ răn đe được các ông, bà không biết kiềm chế dục vọng muốn "kiếm thêm" khi đã có gia đình. Tuy nhiên, không ít quan điểm tỏ ra lo ngại về tính khả thi cũng như tính phù hợp của nó.

Khoản 1 Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

"Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm".

Thật ra, quy định này đã có trong Bộ luật Hình sự 1999. Tuy nhiên, với yêu cầu về tính minh bạch của điều luật, các nhà làm luật đã thay đổi nội dung "gây hậu quả nghiêm trọng" bằng hậu quả cụ thể là "làm cho quan hệ hôn nhân của một trong hai bên dẫn đến ly hôn". Dấu hiệu hậu quả "ly hôn" của cấu thành tội phạm đã khiến cho cả những người không am hiểu luật lẫn các chuyên gia về luật lo ngại. Giới không chuyên luật lo rằng ngoại tình khiến cho quan hệ hôn nhân dẫn đến ly hôn thì có thể đi tù như vậy sẽ có rất nhiều người đi tù. Các luật gia thì lo ngại về tính khả thi và khoa học của quy định này.

Ngoại tình có thể được hiểu là một người đang có vợ, có chồng mà có quan hệ tình dục hoặc có quan hệ tình cảm yêu đương với người khác hoặc người độc thân có quan hệ đó với người đang có vợ, có chồng hoặc cũng có thể cả hai đang có vợ, có chồng. Ngoại tình đôi khi chỉ nói về quan hệ tình yêu nói chung, từ cấp độ thấp nhất là có tình cảm với nhau chứ không cần có quan hệ tình dục. Từ nội dung này cho thấy, cách hiểu điều luật của giới không chuyên là chưa chính xác.

Về mặt khách quan, yêu cầu đầu tiên của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng là "chung sống như vợ chồng". Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó (Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-9-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XV "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình"). Nếu chỉ lén lút quan hệ tình dục hoặc yêu đương theo cái gọi là ngoại tình thì không phải chung sống như vợ chồng. Do đó, việc lo ngại rằng, hành vi ngoại tình của một người có thể bị phạt tù là chưa có cơ sở mà phải ở mức "chung sống như vợ chồng".

Đứng ở góc độ của các luật gia, lo ngại về việc "chung sống như vợ chồng" có thể bị phạt tù nếu dẫn đến hậu quả "làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn" là có căn cứ.

Về khả năng chứng minh hậu quả "ly hôn" phải là kết quả của hành vi "chung sống như vợ chồng" trước đó, nghĩa là phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa chúng sẽ rất khó khăn. Một là, hành vi "chung sống như vợ chồng" phải xảy ra trước yêu cầu xin ly hôn. Hai là, "chung sống như vợ chồng" phải hàm chứa được mối quan hệ nội tại và tất yếu của hậu quả "ly hôn", nghĩa là phải có khả năng dẫn đến xin ly hôn và chỉ có thể là hậu quả ly hôn. Vì thế, nếu họ đã có ý định xin ly hôn, biểu hiện cho đối phương biết bằng việc nói ra, viết sẵn đơn xin ly hôn hoặc đã gửi đơn xin ly hôn cho tòa án rồi mới diễn ra hành vi "chung sống như vợ chồng" rồi sau đó "ly hôn" thì không thể coi chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau. Một trường hợp khác, "chung sống như vợ chồng" dẫn đến việc ghen tuông và từ đó có những hành vi khác như dùng vũ lực, ngược đãi, xúc phạm danh dự, nhân phẩm…v.v để từ những hành vi khác đó họ xin ly hôn thì cũng không thỏa mãn được điều kiện về mối quan hệ nhân quả giữa chúng vì không thỏa mãn được tính nội tại và tất yếu. Không phải bất kỳ ai khi gặp trường hợp bạn đời mình "chung sống như vợ chồng" với người khác cũng hành xử như vậy sau đó. Hậu quả xin ly hôn khi đó có mối quan hệ nhân quả với các "hành vi khác" diễn ra sau đó. Như vậy, chỉ có thể tồn tại được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả khi trước đó họ sống hòa bình nhưng từ khi có sự việc "chung sống như vợ chồng" thì có hậu quả xin ly hôn mà không phải do một nguyên nhân nào khác kèm theo sau hành vi "chung sống". Điều này rất hiếm khi xảy ra vì không ai đang chung sống hòa bình, hạnh phúc với bạn đời của mình mà lại đi "chung sống như vợ chồng" với người khác. Trên thực tế, nhiều trường hợp vợ chồng dù chưa ly hôn nhưng do những bất đồng trong cuộc sống, kinh tế khó khăn, thiếu vắng sự quan tâm…nên sống ly thân và sau đó "chung sống như vợ chồng" với người khác rồi sau đó tự nguyện dẫn đến ly hôn. Vậy làm sao xử lý hình sự họ được (?). Một trường hợp khác, khi hai vợ chồng đã chán nhau, ai cũng có cuộc sống riêng, dù chưa có quyết định ly hôn, nhưng mỗi người "chung sống như vợ chồng" với một người khác rồi đến lúc họ phải ly hôn để giải thoát cho cả hai. Như vậy, không lẽ xử lý hình sự cả hai vợ chồng (?).

Đó là chưa kể về mặt từ ngữ của luật "dẫn đến ly hôn" ở đây là sự việc đòi ly hôn, xin ly hôn bằng đơn, đã gửi đơn đến tòa án hay đã được tòa án quyết định cho ly hôn bằng quyết định hay bản án của tòa án đã có hiệu lực pháp luật? Chỉ riêng điểm này, người áp dụng chắc chắn sẽ rất đau đầu và để an toàn, họ sẽ bỏ qua không xử lý hình sự. Một quy định đưa ra mà thiếu tính khả thi như vậy thì khó có cơ sở tồn tại dù rằng nó góp phần làm minh bạch cho luật.

Từ bất cập trên, theo chúng tôi, nên xem xét lại dấu hiệu hậu quả "làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn" trong cấu thành tội phạm của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015. Phương án tốt nhất là quay về quy định cũ của Điều 147 Bộ luật Hình sự 1999 với dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng. Mặc dù đây là một dạng hậu quả cần đánh giá chủ quan nhưng nếu có hướng dẫn như Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-9-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao về việc hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XV "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình" về dấu hiệu hậu quả nghiêm trọng thì việc áp dụng có thể ổn hơn. Mặt khác, với hướng dẫn như vậy, nhiều hậu quả nguy hiểm khác do hành vi "chung sống như vợ chồng" cũng không bị bỏ sót. 

Chia sẻ bài viết