06/06/2009 - 09:12

Bảo tồn Đồng bằng sông Cửu Long trước biến đổi khí hậu

Chuyển từ khai thác để phát triển sang bảo tồn để phát triển bền vững

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang đứng trước nguy cơ bị ngập lụt sâu bởi sự dâng cao của nước biển, hứng chịu nhiều tác động khắc nghiệt của thiên nhiên như mưa, bão, hạn hán bởi sự biến đổi khí hậu (BĐKH) trên toàn cầu. Làm thế nào để bảo tồn được đa dạng sinh học vốn có của ĐBSCL, giảm tác hại, hạn chế sự “giận dữ” của thiên nhiên, xây dựng ĐBSCL phát triển bền vững? Hôm qua, 5-6-2009, tại TP Cần Thơ, Quỹ quốc tế về Bảo vệ Thiên nhiên tổ chức diễn đàn “Bảo tồn Thiên nhiên và Văn hóa vì sự phát triển bền vững ở ĐBSCL”. Báo Cần Thơ xin trích đăng một số ý kiến của các nhà khoa học tham gia diễn đàn này.

GIÁO SƯ TIẾN SĨ ĐOÀN CẢNH, NGHIÊN CỨU VIÊN CAO CẤP VIỆN SINH HỌC NHIỆT ĐỚI TP HỒ CHÍ MINH:
Nhất thiết phải hình thành khu dự trữ sinh quyển ĐBSCL

- Đa dạng sinh học ở ĐBSCL đang chịu nhiều thách thức bởi sự khai thác quá mức để phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Các hoạt động phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, đã tác động mạnh mẽ đến đa dạng sinh học ở ĐBSCL, mà biểu hiện dễ thấy nhất là phá vỡ cấu trúc tự nhiên của đất. Việc đắp đê bao, đào hệ thống kênh mương ngang dọc đã chia cắt ĐBSCL thành nhiều ô nhỏ. Việc tôn nền đất ở, làm đường giao thông tránh lũ, lên liếp trồng cây đã tạo nên những thay đổi về địa hình và tính chất của đất. Ở một số nơi, người dân tự ý đưa nước mặn vào đồng để chuyển sang nuôi trồng thủy sản, nên đất bị nhiễm mặn không thể cải tạo để canh tác nông nghiệp.

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam sẽ là 1 trong 5 nước bị ảnh mạnh nhất do BĐKH, đặc biệt là tác động do mực nước biển dâng cao. ĐBSCL sẽ là vùng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Có thể nói BĐKH trước hết gây ra các biến động về môi trường, khủng hoảng sinh thái, từ đó có thể dẫn đến một số vấn đề nan giải về an ninh quốc gia.

Đa dạng sinh học với nguồn tài nguyên sinh vật giàu có, hệ thống cảnh quan phong phú luôn là nền tảng của sự phát triển ĐBSCL và còn quan trọng hơn khi vùng kinh tế này chuyển mạnh sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì vậy, bảo tồn đa dạng sinh học ở ĐBSCL không chỉ là công việc của những nhà sinh học, bảo vệ môi trường mà còn là nhiệm vụ của mọi ngành, mọi tầng lớp. Đã đến lúc chúng ta phải chuyển từ khai thác để phát triển sang bảo tồn để phát triển. Để làm được điều này, đòi hỏi phải có chiến lược quản lý tài nguyên nước và lưu vực sông. Cụ thể là thúc đẩy việc bảo vệ rừng, sử dụng hợp lý đất đai, củng cố và quản lý tốt các khu bảo tồn thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và xóa đói giảm nghèo. Nhất thiết phải hình thành Khu Dự trữ sinh quyển ĐBSCL. Kế hoạch hành động bảo tồn đa dạng sinh học ở khu vực ĐBSCL phải được xây dựng theo nguyên tắc lồng ghép với các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội phục vụ phát triển bền vững, nâng cao phúc lợi con người phù hợp với đặc trưng các yếu tố tự nhiên của địa phương.

PHÓ GIÁO SƯ TIẾN SĨ HOÀNG LƯƠNG, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH VÀ NHÂN VĂN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI:
Duy trì mối quan hệ hài hòa giữa tự nhiên và con người

- Vốn được ưu đãi về điều kiện tự nhiên, nên từ lâu đời ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất nông nghiệp lớn của cả nước. Các thế mạnh nổi bật của vùng là trồng lúa, đánh bắt, nuôi thủy sản. Vấn đề là làm sao duy trì được mối quan hệ hài hòa giữa điều kiện môi trường tự nhiên và con người. Cả hai phải được phát huy song song, không lệch bên nào.

Một thế mạnh nữa mà ĐBSCL cần quan tâm là phát triển công nghiệp. ĐBSCL không chỉ thuần túy là vùng sản xuất lương thực, vựa lúa của cả nước mà còn có khả năng phát triển công nghiệp với tiềm năng lớn về chế biến lương thực, bánh kẹo, xay xát lúa, chế biến bột gạo, sản xuất vật tư nông nghiệp... Thực tế cho thấy ở ĐBSCL đã hình thành nhiều khu công nghiệp, nhiều vùng chuyên canh cây ăn trái. Trên đà này, nếu biết phát huy các thế mạnh sẵn có, thời gian tới ĐBSCL sẽ vừa là vùng lúa, vùng cá vừa là vùng phát triển các sản phẩm công nghiệp, nhất là chế biến nông, hải sản.

Tuy nhiên, trước sự đe dọa của thiên nhiên và sự khai thác quá mức, thiếu kế hoạch của con người, các thế mạnh của ĐBSCL đang dần cạn kiệt và suy thoái. Vì vậy, cần phải có những giải pháp mang tầm chiến lược lâu dài để khắc phục, hạn chế tối đa những vấn đề này. Cấp thiết nhất là phải bảo tồn được các khu rừng ngập mặn. Bảo tồn được các khu rừng này cũng đồng nghĩa với việc bảo tồn được sự đa dạng sinh học của vùng, cũng như những sinh kế truyền thống, giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân địa phương. Quan trọng hơn nữa là có thể ngăn chặn có hiệu quả sự dâng cao của nước biển, khắc phục nguy cơ mất chỗ ở của hàng triệu người...

PHÓ GIÁO SƯ TIẾN SĨ NGUYỄN BẢO VỆ, TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ:
Bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với xu thế xâm nhập mặn ngày càng tăng

- ĐBSCL là vùng đất thấp nên hằng năm vào mùa nắng đều có nước mặn xâm nhập vào sâu trong nội đồng. Người dân sống ở vùng ven biển đã có kinh nghiệm bố trí cây trồng vật nuôi trong những hệ thống canh tác phù hợp với điều kiện đất đai chỉ có nước ngọt trong mùa mưa, bị mặn xâm nhập vào mùa nắng. Một số hệ thống canh tác mà nông dân ở vùng này đang sử dụng như: ngăn mặn triệt để, không cho nước mặn vào ruộng trong mùa nắng để trồng lúa, rau, màu... trong mùa mưa; đào mương, lên liếp trữ nước mưa trong mương vườn vào mùa nắng để trồng cây ăn trái, cây công nghiệp quanh năm; cho nước mặn vào ruộng để nuôi tôm cá nước mặn trong mùa nắng sau đó rửa mặn để trồng lúa trong mùa mưa.

Hiện nay, nước mặn xâm nhập ngày càng sâu vào đất liền, độ mặn tăng cao và thời gian ngập mặn kéo dài. Điều này làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh ven biển. Đó là hậu quả của các yếu tố: nước biển dâng cao; lưu lượng nước sông Mê Công trong mùa khô ít đi do rừng thượng nguồn ở các nước đầu nguồn thuộc lưu vực sông bị tàn phá nặng nề; nước sông Mê Công bị chặn nhiều bởi các đập thủy điện; nước sông Mê Công được sử dụng nhiều hơn trong mùa nắng bởi diện tích đất canh tác ngày càng tăng ở các nước Lào, Thái Lan, Campuchia và cả Việt Nam.

Để đối phó với tình trạng này, bên cạnh những biện pháp ngăn mặn, nạo vét kênh mương thì việc bố trí lại cây trồng vật nuôi để phù hợp với điều kiện mới và hiệu chỉnh kỹ thuật canh tác là biện pháp hữu hiệu, linh hoạt, áp dụng nhanh, ít tốn kém mà người dân có thể tham gia. Các biện pháp bao gồm: Bố trí lại mùa vụ để né mặn; Chọn giống kháng mặn; Thay đổi hệ thống canh tác; Trồng loại cây có nhu cầu nước ít; Tăng cường khả năng kháng mặn cho cây bằng cách phun hóa chất lên lá, bón dưỡng chất đối kháng mặn, sử dụng màn phủ nông nghiệp và gia tăng độ ẩm trong vùng sản xuất...

ÔNG PHẠM ĐÌNH ĐÔN CHI CỤC TRƯỞNG CHI CỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHU VỰC TÂY NAM BỘ:
Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường

- Vấn đề vệ sinh môi trường, nước sạch ở khu vực ĐBSCL đang ngày càng trở nên bức xúc. Hằng năm, một lượng rất lớn nước, rác thải sinh hoạt thải ra môi trường mà hầu hết chưa được xử lý triệt để. Bên cạnh đó, trong canh tác Nông - Lâm - Ngư, người dân sử dụng ngày càng nhiều phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, các chế phẩm hóa học, sinh học... để bảo vệ cây trồng vật nuôi. Tổng lượng bùn thải, chất thải nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL khoảng 456 triệu m3/năm mà hầu hết cũng chưa được xử lý, tác động xấu đến các hệ canh tác và sức khỏe con người.

Nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn và các nguồn chất thải công nghiệp đang là vấn đề nan giải của vùng. Hiện tại, tài nguyên nước bề mặt trên sông Tiền, sông Hậu và các cửa sông thông ra biển đã có dấu hiệu nhiễm bẩn chất hữu cơ và vi sinh. Nguyên nhân là do các nguồn nước thải công nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp... Ngoài ra, ô nhiễm Asen trong nước ngầm ở ĐBSCL cũng đã được phát hiện ở nhiều tỉnh, như: Đồng Tháp, Long An, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long, Bạc Liêu...

Nguồn chất thải từ sản xuất công, nông nghiệp, đô thị hóa chưa được xử lý triệt để đang gây áp lực nhiều mặt đến ô nhiễm môi trường và sức khỏe người dân trong vùng. Mặc dù những khó khăn này đã được quan tâm, nhưng vẫn chưa được khắc phục và tiếp tục đe dọa người dân sống trong vùng lũ ở ĐBSCL.

Để bảo tồn và phát triển bền vững ĐBSCL, trong việc quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, cần phải tính đến bảo vệ môi trường. Đã đến lúc phải chú trọng nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cho các cấp chính quyền, ngành chức năng trong việc thực thi Luật Bảo vệ môi trường. Kiên quyết xử lý triệt để các trường hợp vi phạm Luật Bảo vệ môi trường. Tăng cường năng lực quan trắc chất lượng môi trường, giám sát môi trường cũng như năng lực ứng cứu, xử trí kịp thời các sự cố môi trường, suy thoái và ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, cũng cần tính đến việc phát triển công nghệ môi trường, xây dựng cơ chế chính sách, hợp tác quốc tế để tăng cường hiệu quả bảo vệ môi trường.

SONG KIM (thực hiện)

THẠC SĨ KỶ QUANG VINH, GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM QUAN TRẮC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG TP CẦN THƠ:

Cần nâng cao nhận thức trong cộng đồng, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu

- Hiện nay, nhằm chủ động đối phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), TP Cần Thơ hiện đã thành lập Ban chỉ đạo BĐKH; dự thảo kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 2-12-2008, phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH (gọi tắt là Quyết định 158). So với nhiều địa phương trong trong cả nước, TP Cần Thơ được đánh giá là triển khai khá nhanh Quyết định này.

Tuy mới triển khai từ đầu năm 2009 đến nay, nhưng TP Cần Thơ đã tổ chức thành công hội thảo về BĐKH có sự tham gia của các tổ chức, đơn vị khoa học danh tiếng trong và ngoài nước. Hiện nay, thành phố đang xúc tiến thủ tục để ký những biên bản ghi nhớ với các tổ chức này. Trong giai đoạn hiện nay, TP Cần Thơ đang tập trung thu thập thông tin, đánh giá tác động BĐKH trong những năm qua. Trên cơ sở này, thành phố xây dựng dự án cụ thể và sẽ trình bày tại hội nghị quốc tế về ứng phó BĐKH được tổ chức tại Đan Mạch vào cuối năm 2009.

Vấn đề đặt ra hiện nay là việc nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường, kịp thời ứng phó với những điều kiện BĐKH giúp người dân trong cộng đồng chủ động giảm nhẹ những thiệt hại do BĐKH gây ra. Việc làm này không dừng lại ở một địa phương, mà người dân cả vùng ĐBSCL hợp sức lại thì mới đạt hiệu quả cao.

Mục tiêu ứng phó với BĐKH là chương trình cần rất nhiều thời gian và biện pháp triển khai thực hiện phải phù hợp với thực tế. Trước mắt, TP Cần Thơ đang tập trung nghiên cứu xây dựng những quy định, những hướng dẫn chung để mọi người dân có thể vận dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất do BĐKH gây ra...

THIỆN KHIÊM (lược ghi)


Chia sẻ bài viết