14/01/2011 - 21:26

XỬ LÝ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

Thiếu căn cứ xác định dấu hiệu về mặt khách quan

Tiến sĩ Phạm Văn Beo
Trưởng Bộ môn Luật Tư pháp, Khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ

Đoàn viên thanh niên quận Ninh Kiều góp sức cho thành phố xanh - sạch - đẹp. Ảnh: H.V

Ngày 21-12-1999, Quốc hội đã thông qua toàn văn Bộ luật Hình sự năm 1999 và dành 10 điều luật trong phần các tội phạm để quy định các hành vi phạm tội trong lĩnh vực môi trường tại Chương XVII. Trong đó, 3 hành vi trực tiếp gây ô nhiễm môi trường là: Tội gây ô nhiễm không khí (Điều 182), Tội gây ô nhiễm nguồn nước (Điều 183) và Tội gây ô nhiễm đất (Điều 184). Tuy nhiên, kể từ khi ra đời, các điều luật này chưa từng được áp dụng mặc dù trên thực tế, những hành vi gây ô nhiễm môi trường vẫn thường xuyên diễn ra, nếu không muốn nói là diễn ra hết sức nghiêm trọng.

Sở dĩ nhiều vụ gây ô nhiễm môi trường không thể xử lý hình sự là vì Bộ luật Hình sự quy định các tội gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí hoặc ô nhiễm đất cần phải có dấu hiệu “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” mà còn cố tình vi phạm mới cấu thành tội phạm. Theo pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường, khi các cơ sở sản xuất (công ty/pháp nhân) có hành vi gây ô nhiễm môi trường, việc xử phạt hành chính sẽ được tiến hành đối với pháp nhân đó. Trong khi đó, Bộ luật Hình sự chỉ coi cá nhân là chủ thể của tội phạm. Do đó, khi các cơ quan chức năng muốn khởi tố người đứng đầu pháp nhân hoặc người trực tiếp điều hành việc xả thải gây ô nhiễm môi trường thì hành vi của anh ta không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, vì dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính” chưa được thỏa mãn.

Vụ gây ô nhiễm môi trường của Công ty Vedan và hàng loạt các doanh nghiệp khác trong cả nước đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh các nhà lập pháp lẫn áp dụng pháp luật hình sự. Ngày 19-6-2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (có hiệu lực thi hành từ ngày 01- 01- 2010). Trong đó, có sửa đổi, bổ sung một số quy định các tội phạm về môi trường. Một sửa đổi quan trọng nhất là các nhà lập pháp đã gộp các tội gây ô nhiễm không khí, tội gây ô nhiễm nguồn nước, tội gây ô nhiễm đất thành tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Về bản chất, cấu thành tội phạm của tội gây ô nhiễm môi trường cũng đã được sửa đổi. Các nhà làm luật đã bỏ đi dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính” mà còn vi phạm. Chỉ cần việc xả thải ra môi trường nước, không khí và đất “vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác” thì hành vi đã cấu thành tội phạm. Đây rõ ràng là một tiến bộ vượt bậc về mặt lập pháp, khắc phục được hạn chế về cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự các cá nhân gây ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, đã một năm qua kể từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực, vẫn chưa có một báo cáo nào cho thấy cá nhân bị khởi tố về tội gây ô nhiễm môi trường mặc dù thực trạng ô nhiễm môi trường vẫn đang tiếp diễn. Sở dĩ như thế là do việc áp dụng Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 1999 còn khá nhiều vướng mắc.

Trước hết, dấu hiệu về mặt khách quan của tội gây ô nhiễm môi trường là phải có hành vi “thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường, phát tán bức xạ, phóng xạ”. Hành vi này chỉ cấu thành tội phạm khi kèm theo một trong ba trường hợp sau: vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng, hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.

Hiện nay, chưa có một văn bản hướng dẫn nào về hình sự giải thích các tình tiết (dấu hiệu) nói trên trong lĩnh vực môi trường. Trong pháp luật về môi trường, có một số văn bản hướng dẫn liên quan đến vấn đề này, như: Thông tư số 07/2007/TT-BTNMT (ngày 03/7/2007) của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn phân loại và quyết định danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường cần phải xử lý, Nghị định 113/2010/NĐ-CP (ngày 03/12/2010) quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường... Tuy nhiên, cũng không thấy đề cập đến các dấu hiệu này.

Hy vọng các cơ quan có thẩm quyền, các cơ quan chuyên môn sớm ban hành các văn bản hướng dẫn những dấu hiệu về mặt khách quan của tội gây ô nhiễm môi trường, như: “vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng”, “làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng”, “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Từ đó, các cơ quan tiến hành tố tụng mới có cơ sở áp dụng triệt để quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường theo tinh thần của Nghị định số 72/2010/NĐ-CP. Có như thế, các hành vi gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng mới dần được khống chế, tạo môi trường trong sạch để Việt Nam phát triển bền vững.n

Chia sẻ bài viết