15/03/2020 - 07:08

Doanh nghiệp phải khỏe mới “hấp thụ” được chính sách 

Dịch COVID-19, một số ngành, lĩnh vực sản xuất bước đầu bị ảnh hưởng, gián đoạn chuỗi cung ứng nguyên, vật liệu đầu vào, gây đình trệ hoạt động sản xuất kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg (4/3/2020) về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch COVID-19. Chuyên gia kinh tế cho rằng, chính sách của Chính phủ rất kịp thời, nhưng để “hấp thụ” được thì doanh nghiệp (DN) phải có đủ nội lực.

Doanh nghiệp phải đủ nội lực để hấp thụ chính sách của Chính phủ. Trong ảnh: Chế biến cá tra xuất khẩu của Công ty Southvina, Khu Công nghiệp Trà Nóc-TP Cần Thơ.

DN trước “tác động kép”

Theo Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm cả nước có gần 16.200 DN tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước. Còn theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), ảnh hưởng của dịch COVID-19 dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn từ đó gia tăng tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu. Cập nhật đến ngày 4-3-2020, có 23 tổ chức tín dụng (TCTD) báo cáo NHNN, ước tính có khoảng 926.000 tỉ đồng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, chiếm khoảng 14,27% trên tổng dư nợ của 23 TCTD này và chiếm khoảng 11,3% dư nợ cho vay toàn hệ thống. Một số ngành có khả năng ảnh hưởng lớn: nông, lâm nghiệp- thủy sản, DN xuất nhập khẩu, dịch vụ lưu trú, ăn uống, thực phẩm, đồ uống, vận tải, dệt may, da giày, điện tử, điện lạnh, dầu khí, du lịch, giáo dục…

Cũng như DN cả nước, DN vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cũng đang chịu tác động kép của dịch COVID-19. DN đa số quy mô nhỏ và vừa, sản xuất kinh doanh gắn chặt với ngành Nông nghiệp (nguyên liệu đầu vào) và sản phẩm của DN chủ yếu là xuất khẩu sang thị trường lớn: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ… Tuy nhiên, những thị trường này đang chịu tác động của dịch COVID-19 và DN vùng ĐBSCL đang gồng sức chịu đựng. Dịch COVID-19 làm doanh thu của DN sụt giảm mạnh, không xuất khẩu được hàng hóa do vấn đề phong tỏa lưu thông của các quốc gia và khó khăn này cũng kéo theo hàng loạt các khoản nợ ngân hàng. Điều đó cho thấy rằng, DN đang rất trông chờ vào chính sách hỗ trợ của Chính phủ.

Vấn đề vốn cho DN, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, NHNN, các TCTD đã chủ động cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay các khoản nợ hiện hữu, giảm lãi các vay các khoản cho vay mới, miễn giảm các loại phí, triển khai các chương trình, sản phẩm tín dụng... để chia sẻ khó khăn, hỗ trợ DN, người dân khắc phục thiệt hại do dịch COVID-19. Gói tín dụng hỗ trợ từ các TCTD bước đầu khoảng 250.000 tỉ đồng. Tiến sĩ kinh tế Trần Hữu Hiệp cho rằng: “Để “hấp thụ” được chính sách này, ngay bây giờ các DN phải chủ động, chuẩn bị nhiều phương án để triển khai ngay kế hoạch sản xuất kinh doanh. Điều quan trọng là DN phải có đủ nội lực để “hấp thụ” vốn đưa vào sản xuất kinh doanh. Gói tín dụng này nếu năng lực “hấp thụ” của DN kém thì cũng không tới được, điều này đòi hỏi mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và DN phải tốt”.

Cần sự đồng điệu

Các chuyên gia kinh tế cho rằng, Chính phủ đã có chính sách, chủ trương rất tốt nhưng nếu bị gián đoạn ở một khâu nào và kéo dài thời gian thì cơ hội sẽ mất đi đối với DN. Chẳng hạn xem xét, giãn, khoanh các khoản nợ tín dụng, thuế, tiền thuê đất… cho DN đòi hỏi các Bộ, ngành và địa phương thực hiện chủ động, đồng bộ để xử lý tốt những khó khăn DN đang gặp thì DN mới đủ sức vượt qua giai đoạn đầy khó khăn này. Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp nhận định: “DN đang ốm yếu và tìm thầy thuốc để chữa bệnh. Chính sách hỗ trợ là liều thuốc tốt nhất cho DN thời điểm này. Để khỏi bệnh, DN phải nỗ lực hết sức, có chiến lược bài bản mới đủ điều kiện chạm tới các khoản miễn, giảm, giãn thuế, giảm lãi suất. Nhìn ở góc độ vĩ mô, tình hình căng thẳng phải chịu hy sinh về kinh tế, nhưng nếu DN không thể thích nghi, không tính toán đến các phương án kinh doanh thì không thể gượng dậy khi dịch lắng dịu”.

Trong tình hình hiện nay, ngoài Trung Quốc thì một số quốc gia thuộc EU, Hàn Quốc, Nhật Bản… cũng đang là tâm điểm của dịch COVID-19. Những quốc gia này lại là thị trường xuất khẩu thế mạnh của DN vùng ĐBSCL. Cũng chưa có câu trả lời khi nào thì thị trường phục hồi trở lại. Do vậy cơ quan dự báo chuyên môn phải bám sát, cập nhật thường xuyên để cung cấp thông tin cho DN và hỗ trợ DN kết nối giao thương. Vấn đề khác là DN phải nhìn lại thị trường nội địa. Ngay bây giờ, tâm lý mua hàng tích trữ đã xuất hiện ở trong dân và đã tác động nhất định đến giá cả thị trường. Sản xuất đang bị đình đốn vì dịch COVID-19, nếu không có sự chuẩn bị thì tác động còn lớn hơn. Đặc biệt là vùng ĐBSCL- vùng sản xuất chủ lực về lương thực, thực phẩm, trái cây cả nước cần có sự chuẩn bị để khi khơi thông trở lại mới có thể đáp ứng được nhu cầu lớn của thị trường.

DN phải biến thách thức thành các cơ hội kinh doanh. Cơ hội đó là nhu cầu thị trường sau dịch. Điều này cần sự thông tin kịp thời từ các cơ quan quản lý, phải cung cấp thông tin đầy đủ cho DN để DN xác định đúng nhu cầu trong từng thời điểm. Trên thực tế, nhiều DN đang gặp khó, nhất là DN phụ thuộc nguyên phụ liệu từ thị trường Trung Quốc cho biết nếu tình hình thị trường không cải thiện, DN cho công nhân nghỉ tạm thời. Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp cho rằng, trong tình hình khó khăn, DN cho công nhân nghỉ, khi hoạt động lại thì tuyển dụng lao động ở đâu? Đây là bài toán rất khó, bởi lao động mà họ cho nghỉ là lao động đã lành nghề, tuyển dụng mới phải đào tạo lại. “Không thể đẩy lao động ra đường chỉ vì mình đang khó. DN và người lao động trước hết là tuân thủ pháp luật, phải tạo được sự gắn kết giữa DN và lao động. Muốn lao động gắn bó lâu dài với mình, DN cần hành động đúng, đảm bảo chính sách và quyền lợi cho lao động”- Tiến sĩ Hiệp nhấn mạnh.

Hiện nay các chính sách của Chính phủ đã được các Bộ, ngành Trung ương và địa phương triển khai đi vào thực tế, tiến sát với DN thì việc vượt qua khó khăn và ổn định sản xuất kinh doanh còn tùy vào nội lực và sự hấp thụ chính sách của DN.

Bài, ảnh: Gia Bảo

Chia sẻ bài viết