14/04/2020 - 09:44

Hiện tượng sụt lún trong các vùng ngọt hóa tại ĐBSCL

Điểm yếu của những giải pháp chắp vá, ngược quy luật tự nhiên 

Mùa khô năm nay, tình hình sụt lún tại ĐBSCL diễn ra hết sức phức tạp, đặc biệt tại một số vùng như Trần Văn Thời (Cà Mau) và Gò Công (Tiền Giang), làm hư hại nhà cửa, đường giao thông và ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân. Trước thực trạng trên, Báo Cần Thơ đã có cuộc trao đổi với ThS Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL, xung quanh vấn đề này.

Như ông đã biết, mùa khô năm nay có hiện tượng sụt lún đất tập trung ở một số địa phương, cụ thể như ở huyện Trần Văn Thời và ở vùng Gò Công hết sức phức tạp. Nhiều ý kiến cho rằng, nguyên nhân chính là do tình hình hạn khốc liệt gây ra, còn ông nhận định thế nào về vấn đề này?

- Hiện tượng sụt lún ở ĐBSCL mùa khô năm nay nghiêm trọng nhưng không phải phức tạp. Xin được nói rõ phức tạp ở đây theo nghĩa là khi nào hiện tượng rất khó hiểu, khó giải thích, còn hiện tượng nào gây thiệt hại nhiều nhưng có thể lý giải được nguyên nhân thì có thể là nghiêm trọng nhưng không nên gọi là phức tạp.

Các vụ sụt lún năm nay có 2 đặc điểm chung. Một là sụt lún có thể thấy được bằng mắt thường vì đây là sụt lún ở tầng nông, tức là tầng đất bề mặt, gây hư hại đường sá, nhà cửa có thể thấy dễ dàng. Còn sự sụt lún chung của ĐBSCL vẫn đang diễn ra bấy lâu nay là sụt lún ở tầng sâu, sụt lún khá đều đặn trên cả vùng rộng lớn nên khó có thể cảm nhận bằng mắt thường dù đang sống trong vùng sụt lún. Hai là các vụ sụt lún này xảy ra bên trong đê bao của các vùng ngọt hóa như vùng ngọt hóa Trần Văn Thời (50.000ha) và vùng ngọt hóa Gò Công (54.000ha).

Vậy ông lý giải như thế nào về hiện tượng sụt lún xảy ra ở 2 vùng ngọt hóa này. Các vùng này có đặc điểm gì khác biệt và tình hình năm nay có gì đáng lưu ý dẫn tới sự sụt lún nghiêm trọng như hiện nay?

- Các vùng này có đặc điểm chung là gần biển, xa sông, xa nguồn nước ngọt. Trước đây khi chưa có dự án ngọt hóa, thì các vùng này có 2 mùa luân phiên, nước ngọt vào mùa mưa và nước mặn vào mùa khô. Vùng Trần Văn Thời không nằm trong vùng nhận nước từ sông Cửu Long mà chỉ có nước mưa và nước biển. Còn vùng Gò Công, mùa mưa thì có nước ngọt từ mưa và từ sông Tiền, nhưng đến mùa khô khi dòng chảy sông Cửu Long yếu thì vùng này mặn.

Sau đó, hệ thống đê bao và cống đã được xây dựng để trữ nước ngọt sang mùa khô và ngăn không cho nước biển vào để ngọt hóa, tức là biến từ chế độ mặn - ngọt luân phiên theo mùa sang chế độ ngọt quanh năm. Việc ngọt hóa đã giúp tăng được diện tích lúa, tăng từ một vụ lên 2-3 vụ, tăng sản lượng lúa và hoa màu nước ngọt, hình thành các vùng chuyên canh rau màu, cây ăn trái, giúp tăng thu nhập của người dân.

Nhưng vào những năm cực đoan như mùa khô năm nay, mặn đến sớm thì vùng này phải “cách ly” sớm với vùng xung quanh suốt mấy tháng mùa khô bằng cách đóng chặt cống không cho nước bên ngoài vào. Nước ngọt trữ bên trong các kênh nội đồng không thể kéo dài vì bốc hơi, thất thoát nhanh. Khi nước trong kênh hạ thì nó rút nước trong đất ra thêm. Đến khi cả kênh cạn, nứt đáy thì đất đã hoàn toàn khô kiệt, co ngót, giảm thể tích dẫn tới sụt lún. Các vùng này trước khi ngọt hóa thì vào mùa khô nước biển vẫn đóng vai trò giữ ẩm cho đất không bị co ngót sụt lún. Nay nước mặn không được vào, nước mưa thì biến mất nhanh nên đất không còn nước ngọt cũng không còn nước mặn.

Vụ sụt lún tại tuyến đường cặp kênh 14 huyện Gò Công Tây (Tiền Giang). Ảnh: Bình Nguyên

Ngoài những lợi ích của việc tăng diện tích và sản lượng cây trồng thì các vùng ngọt hóa có nhược điểm nào, thưa ông?

- Lâu nay chúng ta thường nghe nói về “xâm nhập mặn” tức là mặn xâm lấn vào vùng ngọt. Trong khi đó, các vùng ngọt hóa này lại chính là “xâm nhập ngọt” vào vùng mặn một cách nhân tạo, bằng biện pháp công trình. Vùng ngọt hóa gần biển xa sông, sau một thời gian cũng bộc lộ nhiều vấn đề.

Ở vùng Gò Công, trong mùa khô các cống phải đóng chặt để trữ ngọt, ngăn mặn thì gây ra tù đọng, ô nhiễm nước, đặc biệt là ở những nơi tập trung dân cư như thị xã Gò Công. Càng về cuối mùa khô càng ô nhiễm nặng. Đầu mùa khô thì do phải tích nước, hoặc bổ sung nước, những vùng địa hình thấp bị ngập. Rò rỉ mặn do công trình lâu ngày thì tất yếu bị xuống cấp. Vì ở vị trí cuối nguồn, gần biển, xa sông nên thường xảy ra thiếu nước ngọt và vào mùa khô thì phải liên tục “gồng mình” chống mặn.

Ở Trần Văn Thời vì nước ngọt chỉ có một nguồn là nước mưa, nên để có đủ nước ngọt cho mùa khô thì mùa mưa phải đóng chặt cống, có khi tích thật nhiều nước mưa gây ngập lênh láng toàn vùng. Hệ thống đê biển, đê cửa sông bị sạt lở, xuống cấp, các kênh bị bồi lắng, nước trong kênh bị ô nhiễm nặng vào cuối mùa khô.

Có nhiều ý kiến cho rằng chính việc sử dụng nhiều nước ngầm đã gây ra hiện tượng sụt lún như hiện nay, ý kiến của ông thế nào về vấn đề này?

- Hiện tượng sụt lún toàn đồng bằng do sử dụng nước ngầm vẫn đang diễn ra. Nhưng vấn đề chung đó của toàn đồng bằng hoàn toàn khác với chuyện sụt lún cục bộ ở các vùng ngọt hóa như ở Trần Văn Thời và Gò Công năm nay vì hai chuyện này khác nhau về bản chất và nguyên nhân. Chuyện sụt lún chung của cả ĐBSCL với tốc độ trung bình khoảng 1,1cm/năm (có các điểm nóng tốc độ đến 2,5cm/năm) diễn ra dần dần từ năm 1991 đến nay có nguyên nhân chính từ việc khai thác nước ngầm quá mức ở các tầng sâu, do vậy sụt lún diễn ra ngầm ở tầng sâu. Còn chuyện sụt lún cục bộ một số địa phương trong mùa hạn năm nay là sự co ngót đất ở tầng nông. Do đó, sự sụt lún tầng mặt này không liên quan đến tình hình lún tầng sâu chung của cả ĐBSCL do sử dụng nước ngầm tầng sâu gây ra.

Theo ông, tình hình sụt lún như thế này liệu có lặp lại trong những năm tới và có giải pháp nào cho vấn đề này không?

- Vì trong các vùng ngọt hóa này, hệ thống canh tác đã chuyển sang ngọt quanh năm và vì rất nhiều kinh phí đã được chi tiêu để xây dựng các công trình đê, cống cho mục đích ngọt hóa nên việc xả nước mặn vào trở lại xem ra khó khả thi vì sẽ có thiệt hại, làm mất sinh kế người dân.

Nhưng về lâu dài, trong bối cảnh như hiện nay, các sự kiện cực đoan trên sông Mekong sẽ còn diễn ra và trong bối cảnh ấy, khi gặp năm ít nước thì thủy điện Mekong tích nước làm cho tình hình cực đoan càng cực đoan hơn. Những vùng ngọt hóa “gần biển, xa sông” như hai vùng này sẽ càng mong manh hơn và càng phải “gồng mình” thường xuyên trong các mùa khô.

Trong những năm cực đoan như năm nay, mặn đến sớm, bao vây xung quanh thì các dự án này phải đóng cống “cách ly” với xung quanh rất sớm và cách ly suốt mùa khô. Đến giữa mùa khô thì nước ngọt không còn, nước mặn cũng không có thì sẽ tiếp tục sụt lún đường xá, nhà cửa.

Đối với vùng ngọt hóa Gò Công, năm nào cống Xuân Hòa còn lấy nước ngọt được thì có thể bổ sung nước ngọt. Nhưng năm nào cực đoan, mặn vào sâu, cống Xuân Hòa cũng bị mặn bao vây thì không thể bổ sung nước ngọt cho Gò Công. Đối với vùng ngọt hóa Trần Văn Thời càng khó hơn vì ngoài nước mưa ra, không còn nguồn nước nào khác để bổ sung khi thiếu nước vào những năm hạn.

Công trình càng lớn tuổi thì càng xuống cấp, kinh phí duy tu bảo dưỡng càng tăng theo thời gian. Thỉnh thoảng các vùng này sẽ yêu cầu cấp tiền để tu bổ cống, nạo vét kênh. Điệp khúc “công trình đầu tư chưa hoàn chỉnh, còn hạn chế” sẽ còn được lặp lại mãi mãi về sau.

Trước mắt, không có giải pháp nào cho các vùng này vì sẽ không có sự đồng thuận xã hội để chấp nhận đưa nước mặn trở lại vào mùa khô, phục hồi chế độ mặn - ngọt luân phiên theo mùa. Nhưng về lâu dài, khi cái giá phải trả càng ngày càng đắt thì tinh thần thuận thiên theo Nghị quyết 120 của Chinh phủ sẽ là tất yếu. Một lần nữa, những ví dụ này cho thấy Nghị quyết 120 mới là giải pháp về lâu dài cho ĐBSCL, còn những giải pháp chắp vá, ngược quy luật tự nhiên, dần dần sẽ biểu hiện những điểm yếu.

Xin cảm ơn ông!

Đường sá tan hoang vì sụt lún

Chưa đầy 1 tháng qua, tại vùng ngọt hóa huyện Trần Văn Thời (Cà Mau) đã xảy ra 8 vụ sụt lún khiến đường sá tan hoang, giao thông nhiều nơi bị chia cắt… Vụ gần nhất xảy ra vào trưa 6-4, trên tuyến đường Co Xáng - Cơi Năm - Đá Bạc thuộc ấp Cơi 5A, xã Khánh Bình Tây (huyện Trần Văn Thời). Qua đo đạc, đoạn sụt lún dài 40m, rộng khoảng 8m và mặt đường nhựa lún sâu từ 3-3,5m so với mặt đường hiện hữu.

Qua thống kê của tỉnh Cà Mau, đầu mùa khô đến nay toàn tỉnh đã xảy ra hơn 1.140 vụ sụt lún làm hư hỏng công trình giao thông, tổng chiều dài hơn 25km. Trong đó, có 7 vị trí sụt lún trên những tuyến đường lớn do tỉnh quản lý, 1.136 điểm sụt lún đường giao thông nông thôn với tổng chiều dài hơn 24,7km.

Tại Tiền Giang, tình trạng sụt lún cũng diễn ra hết sức nghiêm trọng. Điển hình là vụ sụt lún tỉnh lộ 873 vào cuối tháng 2-2020 đã cắt đứt hoàn toàn tuyến giao thông qua một số xã của huyện Gò Công Tây và thị xã Gò Công.

Bình Nguyên (thực hiện)

Chia sẻ bài viết