Sáng 16-5, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân. Nhất trí cao với sự cần thiết ban hành Nghị quyết, các đại biểu Quốc hội cho rằng, đây là bước đi quan trọng, kịp thời thể chế hóa quan điểm chỉ đạo nhất quán của Ðảng, đặc biệt là trong các văn kiện Ðại hội XIII và gần đây là Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. Ảnh: DOÃN TẤN - TTXVN
Không để chính sách thành kẽ hở để doanh nghiệp lợi dụng
Về nguyên tắc quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân (Ðiều 4 dự thảo Nghị quyết), đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương) tán thành với chủ trương chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, đặc biệt trong quản lý điều kiện kinh doanh. Ðây là hướng đi phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, khuyến khích khởi nghiệp, sáng tạo và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng, nếu không có cơ chế hậu kiểm đủ mạnh, minh bạch và hiệu quả thì chính sách này rất dễ trở thành kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng. Thực tế cho thấy, nhiều đối tượng đã lợi dụng chính sách thông thoáng để lập ra hàng trăm công ty không hoạt động thực tế, mua bán hóa đơn, trốn thuế, rửa tiền, gây thất thu ngân sách và làm méo mó môi trường cạnh tranh.
Ðại biểu đề nghị để triển khai Nghị quyết, Chính phủ cần bổ sung rõ các yêu cầu cụ thể đối với hệ thống hậu kiểm: Liên thông dữ liệu giữa các cơ quan thuế, hải quan, ngân hàng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; ứng dụng công nghệ số trong giám sát; xem xét xây dựng chế tài đủ sức răn đe. Ðồng thời, cần quy định rõ các ngành, lĩnh vực buộc phải tiền kiểm, trên cơ sở rủi ro và kinh nghiệm quốc tế, để tránh áp dụng tràn lan hoặc lỏng lẻo.
Về các chính sách hỗ trợ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nhân lực (Chương V), đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga đánh giá, dự thảo Nghị quyết đang quy định rất chung chung và chưa đủ mạnh. Ví dụ, việc “cung cấp miễn phí một số dịch vụ tư vấn pháp lý, đào tạo về quản trị doanh nghiệp, kế toán, thuế, nhân sự, pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh” là cần thiết nhưng còn quá chung chung. Ðại biểu đề nghị giao Chính phủ quy định cụ thể hơn đối với danh mục các loại dịch vụ được cung cấp miễn phí, các công việc được hỗ trợ để khâu tổ chức thực hiện được thống nhất và rõ ràng.
Ðề xuất nâng thời hạn miễn thuế thu nhập doanh nghiệp
Quan tâm đến các chính sách hỗ trợ, đại biểu Trần Thị Vân (Bắc Ninh) cho biết, dự thảo Nghị quyết quy định 4 nhóm đối tượng được miễn, giảm thuế quy định tại Ðiều 10. So với các chính sách khuyến khích khác như ưu đãi tín dụng, tiếp cận đất đai, đào tạo nhân lực, cải cách thủ tục hành chính thì hỗ trợ miễn, giảm thuế có tác động nhanh, không phải qua nhiều thủ tục, giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua giai đoạn khó khăn ban đầu, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Ðể chính sách này có hiệu quả khi triển khai thực hiện, đại biểu đề nghị nâng thời hạn miễn thuế thu nhập doanh nghiệp lên 5 năm, sau đó tiếp tục giảm 50% số thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo thay vì miễn thuế 2 năm và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo như khoản 1 Ðiều 10 dự thảo Nghị quyết.
Ðại biểu phân tích, đặc thù của nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo cần kinh phí đầu tư lớn, thời gian đầu tư kéo dài để nghiên cứu, phát triển sản phẩm, thử nghiệm mô hình kinh doanh, xây dựng công nghệ, tuyển dụng và giữ chân đội ngũ nhân sự chất lượng cao, đồng thời liên tục phải điều chỉnh để thích nghi với biến động của thị trường. Trong suốt quá trình đó, họ phải chấp nhận nguy cơ thua lỗ, thậm chí có thể không có lãi trong 5-7 năm đầu. Việc chỉ miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm và giảm 50% thuế trong 4 năm tiếp theo như dự thảo Nghị quyết là quá ngắn so với chu kỳ phát triển thực tế của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; chưa đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, chính sách thuế cần được thiết kế theo hướng đồng hành với doanh nghiệp trong giai đoạn hình thành và tích lũy ban đầu. Kéo dài thời gian miễn, giảm thuế sẽ tạo dư địa tài chính quan trọng, giúp doanh nghiệp tập trung nguồn lực cho đổi mới sáng tạo. Ðây cũng là giải pháp thiết thực để Nhà nước thể hiện vai trò kiến tạo, nuôi dưỡng hệ sinh thái khởi nghiệp, lực lượng tiên phong góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Ðại biểu Trần Thị Vân cũng đề nghị nâng thời hạn miễn thuế thu nhập cá nhân lên 5 năm đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của các chuyên gia, nhà khoa học nhận được từ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Bởi, các chuyên gia, nhà khoa học là nhân sự nòng cốt, trực tiếp tạo ra giá trị công nghệ, đổi mới sáng tạo và đưa sản phẩm ra thị trường. Thực tiễn cho thấy, nhiều quốc gia có chính sách cạnh tranh rất mạnh mẽ trong lĩnh vực này. “Nếu chúng ta không có chính sách đủ hấp dẫn, cạnh tranh thì sẽ bỏ lỡ cơ hội thu hút nhân tài và khó tạo được bước đột phá về công nghệ trong tương lai”, đại biểu nhấn mạnh.
Khuyến khích các địa phương tạo đất sạch cho kinh tế tư nhân
Ðại biểu Trần Hoàng Ngân (Thành phố Hồ Chí Minh) đánh giá cao nỗ lực của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ để kịp thời thể chế hóa chủ trương của Ðảng và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Ðại biểu nhấn mạnh, Nghị quyết này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi đất nước đang tăng tốc phát triển bước vào kỷ nguyên mới. Khu vực kinh tế tư nhân chiếm 51% GDP, đóng góp 33% tổng thu ngân sách nhà nước nên cần nhiều cơ chế đặc biệt hỗ trợ để phát huy vai trò là động lực quan trọng nhất vào năm 2030.
Dự thảo Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030 có 2 triệu doanh nghiệp, đại biểu cho rằng để đạt mục tiêu này phải có giải pháp đặc biệt. Hiện nay, mỗi năm cả nước chỉ tăng khoảng 30.000-40.000 doanh nghiệp nên để sau 5 năm nữa đạt con số 2 triệu doanh nghiệp thì phải có chính sách hỗ trợ các hộ kinh doanh cá thể để trở thành doanh nghiệp. Cùng với đó, cần nâng cao, mở rộng những doanh nghiệp có quy mô lớn hơn.
Ðồng tình với những chính sách hỗ trợ tiếp cận đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh, đại biểu Trần Hoàng Ngân đề xuất bổ sung nội dung những địa phương có đất đai, có tiềm năng, thế mạnh thì tạo cơ chế thành lập khu công nghiệp để doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ thuê với chính sách hỗ trợ.
“Muốn độc lập, tự chủ về kinh tế thì khu vực tư nhân phải lớn mạnh; do đó, cần điều khoản khuyến khích các địa phương tạo đất sạch cho khu vực kinh tế tư nhân”, đại biểu chỉ rõ.
Tháo gỡ khó khăn và tạo động lực cho kinh tế tư nhân
Ghi nhận và tiếp thu tối đa các ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng khẳng định Cơ quan soạn thảo sẽ nghiên cứu, rà soát, chỉnh lý để hoàn thiện dự thảo Nghị quyết, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả và phù hợp với thực tiễn.
Bộ trưởng Bộ Tài chính đã làm rõ một số nội dung mà các đại biểu Quốc hội quan tâm. Ông nhấn mạnh dự thảo Nghị quyết đảm bảo tính trung lập giữa các thành phần kinh tế, tương thích với các điều ước quốc tế, tuân thủ Hiến pháp và cam kết về mua sắm công. Cụ thể, dự thảo quy định các cơ chế chính sách áp dụng chung cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh đồng thời có chính sách đặc thù cho một số đối tượng cụ thể, ví dụ doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ.
Về cơ chế chính sách, ông Thắng cho biết Chính phủ đã chỉ đạo rà soát, nghiên cứu nội dung của Nghị quyết 68 để thể chế hóa ngay trong dự án luật, dự thảo nghị quyết. Với những nội dung cần thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng hoặc quy định tại các bộ luật, nghị quyết khác, dự thảo đưa ra nguyên tắc định hướng sửa đổi, bổ sung các luật chuyên ngành. Ðối với nguồn lực tài chính, dự thảo giao địa phương chủ động quyết định các định mức, tiêu chí hỗ trợ trên cơ sở khả năng cân đối, đảm bảo minh bạch, khả thi. Các chương trình được nêu trong dự thảo, nguồn lực tài chính sẽ được đánh giá trong quá trình xây dựng, tuân thủ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Liên quan đến việc bỏ thuế khoán, Bộ trưởng Thắng cho biết chủ trương này nhằm minh bạch hóa hoạt động của hộ kinh doanh, tạo sự bình đẳng với doanh nghiệp, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi. Bộ Tài chính đã chỉ đạo rà soát chính sách thuế, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để tạo thuận lợi cho hộ kinh doanh. Ðể giảm gánh nặng chi phí, Nhà nước sẽ hỗ trợ kinh phí xây dựng, thuê mua các nền tảng số, phần mềm kế toán dùng chung.
Về quy định thanh tra, kiểm tra tối đa một lần trong năm, Bộ trưởng Thắng khẳng định quy định này nhằm chấm dứt tình trạng chồng chéo, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Dự thảo hướng tới giảm thanh tra trực tiếp, tăng cường thanh tra từ xa, dựa trên dữ liệu điện tử.
PV (TTXVN)