02/10/2025 - 20:07

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong công cuộc tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị

Kỳ 2: Những sự thật khách quan phản ánh đúng đắn chủ trương, đường lối của Đảng trong công cuộc tinh gọn bộ máy

Việc tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị ở giai đoạn hiện nay có thực sự là hành động làm cho có lệ, hay là việc đấu đá nội bộ, hoặc làm mất đi lịch sử, văn hóa, cội nguồn quê hương như các thế lực phản động đã đồn đoán? Trên thực tế, ta có thừa những căn cứ để phản bác những luận điệu xuyên tạc đó.

Tinh gọn bộ máy là quy luật tất yếu của lịch sử và phù hợp với điều kiện Việt Nam

Từ sau tháng 4-1975 đến nay, nước ta đã không ít lần thực hiện việc sáp nhập, chia tách các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Ta có thể phân chia thành các giai đoạn sau:

Giai đoạn 1 - từ năm 1975 đến 1985: Khi vừa thống nhất, nước ta có 72 đơn vị hành chính cấp tỉnh (gồm các tỉnh, thành phố và khu tự trị). Đến tháng 12-1975, các khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc được giải thể. Đầu năm 1976, ta thành lập nhiều tỉnh mới, chẳng hạn: tại Nam Trung Bộ, tỉnh Thuận Hải được thành lập bằng cách sáp nhập các tỉnh Bình Tuy, Bình Thuận, Ninh Thuận,… Lúc này, số đơn vị hành chính cấp tỉnh giảm mạnh, chỉ còn 38. Đến năm 1978, tại vùng Đông Bắc Bộ, tỉnh Cao Lạng được chia thành hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, nâng số tỉnh, thành tăng lên 39. Năm 1979, đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (tương đương cấp tỉnh) được thành lập trên cơ sở tách từ tỉnh Đồng Nai. Lúc này, số đơn vị hành chính cấp tỉnh của cả nước là 40.

Nguyên nhân chủ yếu của chủ trương sáp nhập tỉnh ngay sau đất nước thống nhất là chúng ta muốn giảm bớt các đơn vị hành chính cấp tỉnh nhỏ lẻ, các tỉnh mới có quy mô lớn sẽ bao quát nhiều vùng, nhiều lĩnh vực kinh tế, giúp Trung ương có thể tập trung đầu tư phục hồi sau chiến tranh mà không phải phân tán ngân sách. Việc bãi bỏ các khu tự trị là vì lúc này ta cũng mong muốn hướng tới sự bình đẳng sâu rộng giữa các dân tộc, không có sự phân biệt về chính sách giữa các khu vực, giữa các vùng miền trong lãnh thổ. Ngoài ra, lúc bấy giờ, tại tỉnh Đồng Nai, có một số vị trí trọng yếu liên quan đến dầu khí và quân sự nên Nhà nước ta mong muốn quản lý trực tiếp. Đó cũng là lý do thành lập đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo do Trung ương quản lý.

Giai đoạn 2 - từ năm 1986 đến năm 2003: Sau gần 13 năm sáp nhập, đến năm 1989, ta lại tách một số tỉnh ở miền Trung để thành lập các tỉnh có quy mô nhỏ hơn, chẳng hạn tại khu vực Bắc Trung Bộ, thành lập tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên - Huế trên cơ sở chia cắt tỉnh Bình Trị Thiên,… Lúc này, cả nước có 44 đơn vị hành chính cấp tỉnh. Tiếp nối cách làm đó, đến năm 1991, nhiều tỉnh mới tiếp tục được thành lập, chẳng hạn tại Đông Nam Bộ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hình thành bằng cách giải thể đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo và sáp nhập với một số huyện của tỉnh Đồng Nai,… nâng số tỉnh, thành của cả nước lên 53. Năm 1997, một số tỉnh khác tiếp tục được chia tách, chẳng hạn: ở Đông Nam Bộ, tỉnh Bình Phước và Bình Dương được thành lập trên cơ sở chia tách tỉnh Sông Bé,... 

Nguyên nhân chủ yếu của các đợt chia tách tỉnh ở giai đoạn này là do chủ trương tiến hành cuộc cải cách kinh tế mang tính cách mạng được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) nhằm xóa bỏ mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp không hiệu quả, đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.

Giai đoạn 3 - từ năm 2004 đến tháng 6-2025: Năm 2004, nhiều tỉnh phải chia nhỏ diện tích, chẳng hạn: ở khu vực Tây Nam Bộ, tỉnh Cần Thơ chia tách thành tỉnh Hậu Giang và TP Cần Thơ (trực thuộc Trung ương),… Khi đó, nước ta có 64 đơn vị hành chính cấp tỉnh. Đến khoảng giữa năm 2008, thủ đô Hà Nội được mở rộng khi sáp nhập toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và một số xã của tỉnh Hòa Bình, nước ta có 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh.

Nguyên nhân của các quyết định thay đổi về đơn vị hành chính sau năm 2003 đều gắn với mục tiêu phục vụ chiến lược phát triển quốc gia trong giai đoạn mới theo yêu cầu của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Ở đầu thế kỷ XXI, Nhà nước tiến hành các thay đổi này để chia nhỏ những địa bàn quá lớn, khó quản lý, đồng thời ta mong muốn mỗi vùng kinh tế trọng điểm đều có đô thị đầu tàu, là trung gian kết nối để phát triển các địa phương lân cận. Chẳng hạn, việc chia tách tỉnh Hậu Giang để thành lập TP Cần Thơ xuất phát từ nhu cầu xây dựng một đô thị hạt nhân cho cả vùng ĐBSCL. TP Cần Thơ sẽ làm trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục của khu vực Tây Nam Bộ,…

Giai đoạn 4 - từ ngày 1-7-2025: Đối với cấp tỉnh, số đơn vị hành chính giảm từ 63 xuống 34, cấp xã giảm từ 10.035 xuống 3.321, cùng với đó 696 đơn vị hành chính cấp huyện kết thúc hoạt động. Bên cạnh đó, ta cũng thực hiện tinh gọn bên trong bằng cách sáp nhập một số cơ quan ,đồng thời cũng dừng hoạt động một số tổ chức không cần thiết.

Nguyên nhân của quyết định này xuất phát từ nhiều nội dung mang tính chiến lược nhằm tinh gọn bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành, phù hợp với xu thế cải cách hành chính hiện đại. Ở thời điểm trước khi sáp nhập, huyện có quy mô dân số nhỏ, địa bàn không rộng nhưng vẫn duy trì đầy đủ hệ thống hành chính cồng kềnh, gây lãng phí ngân sách và nguồn lực. Việc bỏ cấp huyện sẽ giúp rút ngắn quy trình quản lý, giảm trung gian, từ đó đẩy nhanh quá trình ra quyết định và triển khai chính sách. Việc sáp nhập xã và tỉnh cũng hướng đến việc phân bổ lại dân cư và nguồn lực hợp lý hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Kế đến, việc hợp nhất các cơ quan, tổ chức khác nhằm giảm bớt sự chồng chéo, trùng lặp chức năng, nhiệm vụ. Ngoài ra, cải cách này còn là bước chuẩn bị cần thiết để thích ứng với bối cảnh chuyển đổi số và xây dựng chính quyền điện tử khi mà công nghệ thông tin có thể thay thế phần lớn công việc quản lý truyền thống. Bên cạnh đó, điều kiện hạ tầng giao thông ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đã cơ bản đảm bảo nên việc di chuyển của người dân trong quá trình làm các thủ tục hành chính đã dễ dàng.

Như vậy, có thể thấy công cuộc cải cách hành chính nói chung cũng như việc chia cắt, sáp nhập đơn vị hành chính nói riêng điều được thực hiện dựa trên tình hình mỗi giai đoạn để việc quản lý hành chính được hiệu quả nhất. Chính vì thế, có lúc chúng ta sáp nhập, có lúc lại chia tách là phụ thuộc vào chiến lược quản trị của mỗi giai đoạn khác nhau. Trong bối cảnh hiện nay, ta đang thực hiện tái cơ cấu các cấp hành chính không chỉ xuất phát từ yêu cầu tinh giản biên chế, tiết kiệm ngân sách mà còn là xu hướng tất yếu trong quá trình hiện đại hóa nền hành chính quốc gia.

Phù hợp với xu thế chung của thế giới

Qua nhiều lần cải cách, Đảng ta đã có nhiều bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức bộ máy: một bộ máy cồng kềnh với mạng lưới cơ quan làm việc quá nhiều sẽ tốn nhiều ngân sách đầu tư cơ sở hạ tầng cho việc xây dựng cơ quan, mua sắm trang thiết bị để làm việc; một bộ máy có quá nhiều tổ chức nên dễ trùng lặp về nhiệm vụ, chức năng, gây lãng phí nhân lực, văn bản pháp luật chồng chéo giữa cơ quan này với cơ quan kia, gây mâu thuẫn trong quá trình thực thi; Một bộ máy quá nhiều cán bộ sẽ tiêu tốn rất nhiều ngân sách để trả lương; một bộ máy nhiều cấp bậc thì dễ xa dân do phải qua bậc trung gian nhiều hơn. Vì thế, muốn thay đổi cục diện đất nước ta nhất thiết phải thay đổi bộ máy hành chính.

Trên phạm vi quốc tế, có nhiều quốc gia đã thực hiện cải cách hành chính quy mô lớn và đã đạt được những thắng lợi mà cả thế giới phải công nhận. Tại Trung Quốc, số đơn vị hành chính cấp tỉnh vào năm 1950 là 51, vào năm 1954 là 30. Đến năm 2024, mặc dù có khoảng 1,4 tỉ dân nhưng quốc gia này chỉ có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh. Với chính sách tinh giản bộ máy quản lý, Trung Quốc đã tiết kiệm ngân sách, tiết kiệm nhân lực nên tối ưu hóa được nguồn lực để phát triển đa lĩnh vực, tạo động lực giúp Trung Quốc trở thành một cường quốc kinh tế của thế giới trong giai đoạn hiện nay. Tương tự, Pháp cũng là quốc gia cũng từng có những đợt cải cách bộ máy hành chính sâu rộng. Trước đây, tại phần lãnh thổ chính ở châu Âu (không tính các nước thuộc địa), nước này được chia thành 22 vùng để quản lý, nhưng đến năm 2015 giảm xuống chỉ còn 13 vùng. Các vùng mới được hình thành bằng cách sáp nhập các vùng nhỏ lân cận, có điều kiện tự nhiên tương đồng. Hiện nay, Pháp là một trong những quốc gia được đánh giá là có hệ thống quản lý trong khu vực công gọn nhẹ và hiệu quả bậc nhất ở châu Âu.

Như vậy, từ thực tiễn trong nước và những minh chứng về sự thành công của việc cải cách hành chính của quốc gia khác, cho thấy đường lối đổi mới trong việc sắp xếp lại bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là một hành động đúng đắn, kịp thời, không những phù hợp với điều kiện Việt Nam mà còn bắt kịp thời đại, phù hợp với xu thế chung của thế giới.

Không phải hành động mang tính cá nhân

Thứ nhất, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII và các Nghị quyết tiếp theo của Trung ương đã nhấn mạnh mục tiêu của việc tổ chức lại bộ máy là "tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả", không phải nhằm phục vụ lợi ích của một nhóm người nào.  Đây là bước đi phù hợp với yêu cầu thực tiễn, hoàn toàn không mang tính "thanh trừng" như các thế lực thù địch suy diễn.

Thứ hai, công tác phòng, chống tham nhũng và xử lý cán bộ sai phạm được tiến hành công khai, minh bạch, đúng quy trình. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ cấp cao, đã bị xử lý nghiêm khắc trong thời gian qua. Điều đó không thể hiện sự "thâu tóm quyền lực" mà là minh chứng rõ ràng cho quyết tâm làm trong sạch bộ máy trên nguyên tắc "không có vùng cấm". Việc xử lý cán bộ sai phạm công khai, đúng quy trình tạo ra tác dụng răn đe mạnh mẽ, giúp ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức công vụ đồng thời góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm, sự tự giác tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền. Qua đó, củng cố thêm lòng tin vào thể chế và chính quyền, tạo ra hiệu ứng tích cực trong dư luận, giúp nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật, ý thức công dân trong giám sát quyền lực và chính vì thế nhận được sự đồng thuận cao trong xã hội.

Thứ ba, việc tinh gọn bộ máy giúp tiết kiệm ngân sách, nâng cao hiệu quả phục vụ người dân, Nhân dân chính là đối tượng thụ hưởng từ chủ trương này. Tinh gọn bộ máy giúp loại bỏ những tầng nấc trung gian không cần thiết, rút ngắn thời gian xử lý công việc. Khi bộ máy vận hành linh hoạt hơn, người dân sẽ nhận được dịch vụ hành chính nhanh chóng, hiệu quả hơn, giảm phiền hà và tiết kiệm chi phí. Việc tinh giản biên chế đi đôi với nâng cao chất lượng cán bộ công chức, giúp hình thành đội ngũ chuyên nghiệp, trách nhiệm cao. Khi đội ngũ này hoạt động hiệu quả, người dân sẽ được phục vụ tận tâm, đúng mực, tạo niềm tin vào bộ máy chính quyền. Tinh gọn bộ máy giúp tiết kiệm ngân sách nhà nước, từ đó có thêm nguồn lực đầu tư cho các lĩnh vực thiết yếu như y tế, giáo dục, an sinh xã hội. Người dân là đối tượng được hưởng lợi trực tiếp từ sự phân bổ nguồn lực hợp lý và hiệu quả.

Nhận được sự đồng thuận

Công cuộc cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay luôn được sự ủng hộ của đa số cán bộ, đảng viên và nhận được sự đồng thuận của hầu hết các tầng lớp nhân dân. Điều này có thể dễ dàng được nhìn thấy bằng các minh chứng cụ thể trong thực tiễn sắp xếp bộ máy.

Trong tháng 4-2025, nhiều địa phương trên cả nước đã tiến hành khảo sát ý kiến của người dân về việc đổi tên đơn vị hành chính, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp xã. Kết quả cho thấy ta đã nhận được sự đồng thuận rất cao từ nhân dân. Chẳng hạn, theo Báo Điện tử Chính phủ ngày 23-4-2025, tại tỉnh Hậu Giang (cũ), có 99,55% cử tri thống nhất đối với sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, có 99,41% đồng tình đối với sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã,… Theo Báo Nhân Dân ngày 3-5-2025, trước khi thực hiện sáp nhập, các đề án sắp xếp, sáp nhập cấp tỉnh và cấp xã được nhân dân đồng thuận với tỉ lệ trung bình khoảng 96%; tất cả Hội đồng Nhân dân cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh trong cả nước đã ban hành Nghị quyết thông qua các Đề án với tỉ lệ đồng thuận đa số đạt 100%.

Bên cạnh đó, ngay khi triển khai chủ trương tinh giản biên chế, các cơ quan từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều cán bộ, đảng viên, những người có chức vụ, cấp bậc cao thể hiện sự gương mẫu, hy sinh quyền lợi cá nhân bằng cách chủ động xin nghỉ hưu trước tuổi, nhường vị trí cho người trẻ tuổi hoặc tự nguyện làm chức vụ thấp hơn; sẵn sàng thay đổi nơi làm việc khi phải gộp cơ quan công tác, chấp nhận đi làm xa nhà,…

Tất cả những kết quả, những việc làm này đều thể hiện sự đồng thuận, sự tin tưởng gần như tuyệt đối của các tầng lớp, giai cấp về chủ trương sắp xếp, tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị. Đây là những thuận lợi quan trọng, là tiền đề để cuộc cải cách hành chính của ta thành công.

Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến cán bộ, đảng viên

Trong bối cảnh việc sắp xếp bộ máy trong hệ thống chính trị đã và đang thực hiện quyết liệt, việc bố trí người đang làm việc trong khu vực công là vấn đề rất được quan tâm. Các câu hỏi như "ai làm gì?", "ai làm ở đâu?", "người thuộc diện tinh giản, người nghỉ hưu trước tuổi được hưởng chế độ, chính sách gì?”,… trở thành một vấn đề hết sức quan trọng, là những câu hỏi phổ biến, là những "từ khóa" được tìm kiếm rất nhiều trên internet, và đặc biệt đây cũng là những vấn đề có phần nhạy cảm. 

Ý thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã không cứng nhắc thực hiện cắt giảm biên chế một cách ào ạt theo một chỉ tiêu nhất định, mà thực hiện từng bước, theo lộ trình phù hợp. Bên cạnh đó, ta còn quy định những chính sách để bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quá trình nghỉ hưu trước tuổi, tinh giản biên chế. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/2024/NĐ-CP, Nghị định số 67/2025/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn khác nhằm quy định cụ thể về chế độ cho cán bộ, công chức, viên chức nghỉ hưu trước tuổi, thôi việc. 

Đối với cán bộ còn tiếp tục làm việc, sau khi sáp nhập các đơn vị hành chính, một số người phải đi làm xa nên phát sinh chi phí sinh hoạt cho việc thuê nhà, đi lại,... đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cá nhân và gia đình. Với tinh thần đồng cảm và thấu hiểu, Nhà nước ta đã có những động thái kịp thời bằng cách ban hành các chính sách hỗ trợ để cán bộ yên tâm công tác. Chẳng hạn, tại tỉnh Cà Mau, Nghị quyết 08/2025/NQ-HĐND ngày 22/9/2025 của Hội đồng Nhân dân tỉnh quy định chính sách cho cán bộ làm việc tại cấp xã có khoảng cách từ nhà ở đến cơ quan từ 15km trở lên được hỗ trợ 480.000 đồng/người/tháng cho chi phí đi lại, 840.000 đồng/người/tháng cho chi phí thuê chỗ ở, 500.000 đồng/người/tháng cho chi phí sinh hoạt,... Tại TP Cần Thơ, ngày 28-8-2025, Hội đồng Nhân dân thành phố đã thông qua nghị quyết ban hành các chính sách hỗ trợ người làm việc trong hệ thống chính trị. Theo đó, người lao động thuộc tỉnh Hậu Giang (cũ), Sóc Trăng (cũ) đến làm việc tại Trung tâm hành chính thành phố Cần Thơ (mới) mà chưa được bố trí chỗ ở, xe đưa rước đi làm việc được hỗ trợ 5 triệu đồng/người/tháng từ tháng 7-2025 đến tháng 6-2027,…

Từ thực tiễn hành động, cho thấy những quyết sách của Nhà nước rất nhân văn vì nó kịp thời, giải quyết được những lo lắng của cán bộ, tạo sự quan tâm, khích lệ đối với các cán bộ trong diện tinh giản cũng như cán bộ tiếp tục làm việc sau khi sáp nhập các đơn vị hành chính. Như vậy, trong việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, tinh gọn biên chế, Đảng và Nhà nước ta đã giải quyết ổn thỏa khi dung hòa được giữa công việc và yếu tố con người.

Không mất lịch sử, văn hóa, cội nguồn quê hương

Việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp xã đồng thời kết thúc hoạt động cấp huyện là một bước đi trong tiến trình cải cách bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là sẽ làm mất đi cội nguồn, văn hóa hay lịch sử của quê hương. Cần khẳng định rằng ranh giới hành chính chỉ là yếu tố mang tính kỹ thuật, phục vụ cho mục tiêu quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội. Trong khi đó, cội nguồn, văn hóa, lịch sử lại là những giá trị tinh thần, được bảo tồn và truyền qua các thế hệ. Nó tồn tại trong lòng người dân, trong truyền thống, trong những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đã được hun đúc qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm.

Việc sáp nhập địa giới không nhất thiết phải xóa bỏ di tích, phong tục hay truyền thống của một địa phương. Ngược lại, nếu tổ chức lại bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn thì có thể giúp địa phương tập trung nguồn lực hơn cho công tác bảo tồn văn hóa. Chẳng hạn, sau khi huyện Từ Liêm (Hà Nội) được chia tách thành quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm vào năm 2013, người dân nơi đây vẫn gìn giữ các lễ hội truyền thống như Lễ hội đình Chèm, đình Tây Tựu hay các làng nghề truyền thống như làng nghề trồng hoa Tây Tựu, làng nghề rèn sắt Phúc Diễn,… Những giá trị văn hóa ấy không hề bị mất đi, mà còn được quảng bá rộng rãi hơn nhờ công tác quản lý tốt hơn sau khi tổ chức lại đơn vị hành chính. Tương tự, khi tỉnh Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội năm 2008, nhiều người cũng lo ngại về việc mất đi bản sắc vùng đất "xứ Đoài mây trắng". Tuy nhiên, đến nay nhiều di sản văn hóa như làng cổ Đường Lâm, Lễ hội chùa Thầy vẫn được duy trì, thậm chí còn được nhiều người biết đến hơn khi được về với Thủ đô.

Như vậy, dù bản đồ hành chính có thay đổi, tên gọi địa phương có thể không còn như xưa nhưng bầu trời Tổ quốc không chỉ là bầu trời trên bản đồ, mà là không gian sống, là khát vọng, là tình yêu quê hương đất nước trong lòng mỗi người dân. Có thể hôm nay một làng quê nhỏ bé từng mang tên xã A, huyện B, tỉnh C đã không còn hiện diện trên bản đồ dưới tên cũ mà nó được gộp vào một địa phương lớn hơn, mang tên mới nhưng con đường làng quen thuộc, cánh đồng lúa mênh mông, bờ tre, giếng nước, mái đình,… vẫn còn đó. Người dân nơi ấy vẫn sống bằng tình nghĩa, bằng tiếng nói quê hương, bằng những giá trị văn hóa được truyền đời này qua đời khác cùng với lòng tự hào dân tộc nguyên vẹn. Vì lẽ đó, không một ai có thể xóa bỏ được lịch sử, văn hóa, cội nguồn quê hương chỉ bằng một quyết định hành chính.

TRẦN THI THƠ

(Trường THPT Chiêm Thành Tấn)

(Còn tiếp)

Chia sẻ bài viết