Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, đáp ứng yêu cầu thời kỳ phát triển mới của đất nước, xây dựng phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng gắn với hoàn thiện thể chế và công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Kỳ 1: Từ thực tiễn sinh động đến yêu cầu cấp thiết của thời kỳ mới
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với Nhà nước và xã hội luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh rằng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, đưa đất nước vững bước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa. Mỗi chặng đường phát triển của dân tộc đều gắn liền với sự vận động, hoàn thiện không ngừng phương thức lãnh đạo của Đảng để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn lịch sử. Chính sự đổi mới ấy đã trở thành một tất yếu khách quan, bảo đảm cho Đảng luôn giữ vững bản lĩnh cách mạng, phát huy trí tuệ, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, lãnh đạo toàn xã hội đi đến những thắng lợi to lớn. Trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước đang đứng trước những vận hội mới đan xen với thách thức gay gắt của thời kỳ hội nhập toàn cầu, cách mạng công nghiệp lần thứ tư và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, vấn đề tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị càng trở nên cấp bách, vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa có tính thực tiễn sâu sắc, nhằm đáp ứng đòi hỏi phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng.
Nhìn lại chặng đường gần 40 năm đổi mới, chúng ta thấy rõ rằng thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước không thể tách rời sự lãnh đạo đổi mới, sáng tạo của Đảng. Đảng đã chủ động chuyển đổi phương thức lãnh đạo từ chỗ bao biện, làm thay sang lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, nghị quyết; từ chỗ thiên về mệnh lệnh, hành chính sang chú trọng dân chủ, đối thoại, thuyết phục và nêu gương; từ chỗ coi trọng lãnh đạo trực tiếp trong mọi lĩnh vực sang kết hợp hài hòa với phát huy vai trò, trách nhiệm, quyền chủ động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhờ vậy, hệ thống chính trị của chúng ta ngày càng được củng cố, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu. Trong thực tiễn đó, phương thức lãnh đạo của Đảng cũng từng bước tiệm cận với những chuẩn mực quản trị hiện đại, vừa bảo đảm giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn những hạn chế, bất cập. Ở một số nơi, một số cấp ủy, tổ chức đảng vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo đối với cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; một số nghị quyết còn chậm đi vào cuộc sống, tính khả thi chưa cao, chưa thực sự xuất phát từ hơi thở cuộc sống và nhu cầu của nhân dân; một bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở, còn lúng túng trong việc cụ thể hóa, triển khai các chủ trương, đường lối; việc phát huy dân chủ và cơ chế giám sát, phản biện xã hội của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu mới. Những hạn chế này nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, làm giảm niềm tin của nhân dân, từ đó tác động tiêu cực đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII khai mạc, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là hết sức to lớn. Đó là yêu cầu xuất phát từ tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, đan xen cả thời cơ và thách thức; từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển bùng nổ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn… đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả phương thức lãnh đạo, quản lý và điều hành quốc gia. Đó cũng là yêu cầu từ chính thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nơi mà quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ, minh bạch, trách nhiệm giải trình phải được đề cao, dân chủ phải được phát huy thực chất. Đồng thời, đó còn là yêu cầu đến từ nhân dân - chủ thể của quyền lực, những người luôn kỳ vọng vào một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh”, đặt lợi ích của dân tộc và nhân dân lên trên hết, trước hết.
Việc nghiên cứu, phân tích từ thực tiễn sinh động những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và yêu cầu mới đặt ra, để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, không chỉ là nhiệm vụ khoa học, mà còn là mệnh lệnh của thực tiễn, là sự thôi thúc của lịch sử. Đây là vấn đề không thể chậm trễ, không thể dừng lại, bởi nếu Đảng không đổi mới, không kịp thời điều chỉnh phương thức lãnh đạo cho phù hợp thì sẽ khó có thể giữ vững vai trò lãnh đạo, khó đáp ứng được kỳ vọng ngày càng cao của nhân dân, khó thực hiện thành công mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn tới. Do đó, đặt vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị hôm nay, chính là đặt vấn đề bảo đảm cho sự phát triển của đất nước ngày mai, bảo đảm cho sức sống trường tồn của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã lựa chọn. Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị đã có những bước tiến quan trọng, khẳng định rõ hiệu quả trong thực tiễn. Trước hết, nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng được nâng cao rõ rệt, tạo sự chuyển biến tích cực trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu, ngày càng thể hiện tính tiên phong, gương mẫu, có ảnh hưởng tích cực trong công tác tuyên truyền, vận động và hướng dẫn quần chúng, bảo đảm đúng cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ".
Một điểm nhấn quan trọng là công tác sắp xếp tổ chức bộ máy gắn với việc phân cấp, phân quyền được đẩy mạnh, góp phần phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, từng bước khắc phục biểu hiện bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo. Chất lượng đội ngũ cán bộ từng bước được nâng lên, công tác phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ngày càng chặt chẽ, bài bản. Cùng với đó, công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, tạo chuyển biến trong siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực lãnh đạo.
Bên cạnh đó, Đảng chú trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc. Nhiều quy định, cơ chế mới được ban hành nhằm phát huy dân chủ, đề cao vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Việc gắn đổi mới phương thức lãnh đạo với xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và hiệu quả của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố và bồi đắp niềm tin của nhân dân vào Đảng.
Tuy nhiên, công tác đổi mới phương thức lãnh đạo vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chậm được thể chế hóa hoặc thể chế chưa đầy đủ, thiếu tính khả thi. Tình trạng ban hành nhiều văn bản nhưng còn dàn trải, chung chung, chậm sửa đổi, bổ sung vẫn tồn tại. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa thực sự hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của một số tổ chức, cá nhân, người đứng đầu chưa rõ ràng; việc phân cấp, phân quyền còn hạn chế.
Công tác kiểm tra, giám sát ở một số cấp ủy chưa được chú trọng đúng mức, chưa phát huy đầy đủ vai trò của các cơ quan tham mưu, giúp việc. Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa tạo sức lan tỏa mạnh mẽ đến một số đối tượng, địa bàn. Vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chưa được phát huy toàn diện. Cải cách hành chính, đổi mới lề lối, phong cách làm việc ở một số nơi vẫn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
.webp)
Nguyên nhân chính của những hạn chế này xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ, chưa thống nhất của một bộ phận cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của việc đổi mới phương thức lãnh đạo. Năng lực cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Chính sách cán bộ chưa đủ sức tạo động lực để đội ngũ toàn tâm, toàn ý với công việc. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, còn hạn chế về năng lực, phẩm chất, uy tín, thậm chí vi phạm kỷ luật, pháp luật, gây ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân. Thêm vào đó, một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; vẫn tồn tại biểu hiện cục bộ, mất đoàn kết, bao biện, làm thay, áp đặt, lạm dụng quyền lực hoặc né tránh, sợ trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo.
Từ thực tiễn trên có thể thấy, cùng với những thành tựu to lớn, việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị vẫn là yêu cầu khách quan, cấp thiết. Đây không chỉ là nhiệm vụ nhằm phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục hạn chế, yếu kém, mà còn là yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện, nâng cao năng lực cầm quyền, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay phải được đặt trên nền tảng kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là yếu tố quyết định để bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đi đôi với việc đề cao kỷ luật, kỷ cương trong toàn Đảng. Mỗi tổ chức, mỗi cá nhân, nhất là người đứng đầu, cần được xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, nhằm thực hiện đúng nguyên tắc “quyền lực phải gắn với trách nhiệm”, không để xảy ra tình trạng lạm quyền, buông lỏng lãnh đạo hay né tránh trách nhiệm. Việc đổi mới cần được triển khai một cách chủ động, bài bản, quyết liệt nhưng đồng thời thận trọng, có bước đi phù hợp, vấn đề nào rõ thì phải kiên quyết đổi mới, vấn đề nào còn nhiều ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, thí điểm, tránh nóng vội hoặc chậm trễ, bảo đảm kế thừa những thành tựu đã được thực tiễn chứng minh là đúng. Mỗi cấp ủy, mỗi lĩnh vực, mỗi cơ quan trong hệ thống chính trị phải quán triệt những nguyên tắc chung, đồng thời vận dụng sáng tạo cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của mình, nhằm phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo. Trên cơ sở đó, cần đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo của Đảng ở tất cả các khâu: từ xây dựng và ban hành đường lối, chủ trương, đến công tác tổ chức cán bộ, công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, nêu gương; đồng thời cải cách mạnh mẽ phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Một khi năng lực thể chế hóa chủ trương, cụ thể hóa đường lối thành luật pháp, chính sách được nâng lên, gắn với việc phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, thì đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng sẽ tạo được chuyển biến căn bản, thực chất, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện trong thời kỳ mới.
Trong quá trình đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã có những chuyển biến căn bản và quan trọng. Nếu như trước đây, Đảng thường trực tiếp lãnh đạo bằng các chỉ thị, nghị quyết thì nay đã chuyển mạnh sang phương thức ban hành nghị quyết, còn Nhà nước đảm nhận nhiệm vụ thể chế hóa thành luật pháp, chính sách để triển khai trong toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Từ chỗ Đảng vừa lãnh đạo, vừa trực tiếp quản lý điều hành hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội, đến nay đã hình thành cơ chế rõ ràng hơn với nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Trong công tác cán bộ, thay vì chủ yếu phân công, chỉ định, Đảng thực hiện kết hợp giữa phân công và giới thiệu, đồng thời tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước chủ động xem xét, kiến nghị và thực hiện thông qua cơ chế pháp luật. Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước cũng từng bước được hoàn thiện: từ lề lối làm việc còn thiên về sự vụ, thiếu quy chế cụ thể, đến nay đã hình thành nền nếp khoa học, chặt chẽ, đồng bộ hơn, bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng giữa hai bên. Những đổi mới đó gắn với quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đã góp phần nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và hiệu quả của Đảng đối với hệ thống chính trị, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, mở rộng đối ngoại, tăng cường niềm tin của Nhân dân vào Đảng.
Tuy vậy, công cuộc đổi mới phương thức lãnh đạo vẫn còn những mặt hạn chế. Một số chủ trương lớn của Đảng chậm được thể chế hóa, hoặc thể chế rồi nhưng chưa khả thi. Tình trạng ban hành quá nhiều văn bản, nội dung còn chung chung, thiếu tính cụ thể vẫn chưa được khắc phục triệt để. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị còn bất cập, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của tổ chức và người đứng đầu nhiều khi chưa thật rõ ràng; phân cấp, phân quyền chưa đủ mạnh. Ở một số nơi, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn chậm đổi mới; thậm chí có hiện tượng cơ quan đảng can thiệp quá sâu vào hoạt động của cơ quan nhà nước, bao biện, làm thay, lẫn lộn chức năng lãnh đạo và quản lý. Công tác kiểm tra, giám sát ở một số cấp ủy chưa được chú trọng; vai trò của cơ quan tham mưu, giúp việc chưa phát huy đầy đủ. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị đôi khi còn dàn trải, chưa tác động sâu đến một số đối tượng, địa bàn. Bên cạnh đó, cải cách hành chính trong Đảng và đổi mới lề lối làm việc vẫn chưa đáp ứng yêu cầu mới; ở nhiều nơi vẫn còn tình trạng hội họp nhiều, nói nhiều làm ít, né tránh trách nhiệm, đùn đẩy công việc, thiếu tính gương mẫu.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới đã đưa đất nước ta đạt được những thành tựu mang tầm vóc lịch sử, tạo nên thế và lực chưa từng có trong nhiều thập niên. Việt Nam ngày càng khẳng định được vị thế và uy tín trên trường quốc tế, tạo nền tảng vững chắc để bước vào một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn của khát vọng hùng cường, phồn vinh, công bằng và văn minh. Trong bối cảnh đó, yêu cầu tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo và cầm quyền trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ: kiên định nguyên tắc, đồng thời đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong điều kiện mới. Đây không chỉ là nhiệm vụ chiến lược mà còn là chìa khóa để Đảng ta hoàn thành sứ mệnh lịch sử, lãnh đạo dân tộc vững bước đi lên trong kỷ nguyên mới.
Kết quả đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng qua nhiều năm vừa qua là minh chứng sinh động cho năng lực cầm quyền ngày càng được nâng cao, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển đất nước. Nghị quyết 28-NQ/TW đã khẳng định rõ: mục tiêu cao nhất là tạo nên "chuyển biến mạnh mẽ, thực chất" trong cách thức lãnh đạo của Đảng, đảm bảo hiệu quả, thiết thực, sát với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện trong giai đoạn mới. Đại hội XIII cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xác lập đây là những nhiệm vụ cấp bách và nền tảng để xây dựng một Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Hội thảo gần đây do Ban Tổ chức Trung ương tổ chức đã chỉ rõ rằng đổi mới phương thức lãnh đạo cần được hiện hữu trong từng hoạt động hàng ngày của các cấp ủy, được biểu thị qua phong cách lãnh đạo hiện đại, lề lối làm việc khoa học và tác phong sâu sát thực tiễn. Song song đó, yêu cầu cán bộ càng cao càng phải gương mẫu đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo giải pháp, góp phần tạo hiệu ứng lan tỏa niềm tin trong Đảng và cộng đồng.
Từ thực tiễn sinh động đến yêu cầu cấp thiết của thời kỳ mới, việc đổi mới phương thức lãnh đạo không chỉ là một nhiệm vụ xây dựng Đảng mà là mệnh lệnh yêu cầu của lịch sử. Khi kinh tế phát triển cao, hội nhập quốc tế sâu rộng, chuyển đổi số trở thành xu thế mạnh mẽ, Đảng cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp: nâng cao chất lượng chủ trương, đường lối; hoàn thiện thể chế hóa và cụ thể hóa chính sách; cải tiến công tác tổ chức cán bộ; đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục và nêu gương; hoàn thiện kiểm tra - giám sát; đồng thời, cải cách hành chính, đổi mới phong cách và phương pháp làm việc ở mọi cấp. Chỉ có như vậy, mới thực sự khai mở sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, bảo đảm lãnh đạo toàn diện hiệu lực hiệu quả. Đó chính là con đường để Đảng giữ vững vai trò dẫn dắt, để dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển phồn vinh hạnh phúc với bước đi vững chắc, bản lĩnh và đầy trí tuệ, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
(Còn tiếp)
CHI BỘ TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH HẢI 2