Là vựa lúa lớn nhất cả nước, nhưng thời gian qua ĐBSCL đối diện với nhiều thách thức do biến đổi khí hậu (BĐKH), tình trạng thoái hóa đất canh tác, dịch hại, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, cơ sở hạ tầng thủy lợi còn hạn chế trong quá trình sản xuất lúa. Giải pháp sản xuất lúa an toàn, hiệu quả, tránh rủi ro thiên tai, bảo vệ môi trường... đang được các ngành, các cấp, các địa phương vùng ĐBSCL nỗ lực thực hiện.
Nhiều thách thức
Theo Đại học Cần Thơ, hiện nay ĐBSCL vẫn được xác định là khu vực có diện tích gieo trồng lúa đứng đầu cả nước (chiếm 52% diện tích gieo trồng lúa của cả nước). Diện tích này tăng dần và thay đổi hằng năm. Điển hình, năm 2000 diện tích gieo trồng lúa đạt 3,95 triệu héc-ta, chiếm 51,5% diện tích gieo trồng của cả nước; năm 2015 tăng lên 4,3 triệu héc-ta, chiếm 55% diện tích gieo trồng cả nước; năm 2021 giảm nhẹ còn 3,89 triệu héc-ta, chiếm 53,7% diện tích gieo trồng của cả nước và năm 2025 ước sản xuất trên 4 triệu héc-ta, với tổng sản lượng thu hoạch trên 25,51 triệu tấn (cao hơn năm 2024 gần 200.000 tấn).
Thời gian qua, ngành Nông nghiệp của các tỉnh, thành vùng ĐBSCL không ngừng cải thiện giống lúa, canh tác cho sản lượng cao từ 6-8 tấn/ha. ĐBSCL cũng đã tập trung phát triển và mở rộng các quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, an toàn và hữu cơ như “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm”, giống “tập trung né rầy” và nhiều mô hình kỹ thuật tiến bộ khác. Các giải pháp để thích ứng và giảm phát thải khí nhà kính trong canh tác lúa được triển khai gần đây đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của các chuyên gia, nông nghiệp là lĩnh vực phát thải cao thứ hai của quốc gia, chiếm khoảng 18% tổng lượng phát thải. Lúa gạo chiếm hơn 75% lượng khí mê-tan và chiếm khoảng một nửa (48%) lượng khí thải của ngành Nông nghiệp. Bên cạnh đó, diện tích sản xuất áp dụng các biện pháp canh tác bền vững như “1 phải, 5 giảm”, “3 giảm, 3 tăng”, canh tác bền vững, canh tác hữu cơ tăng nhanh trong những năm gần đây nhưng vẫn còn ở mức thấp, còn tồn tại tình trạng người dân sản xuất lúa dựa theo tập quán và kinh nghiệm.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tỷ lệ sản xuất bền vững còn thấp là do nông dân gặp khó khăn về hoạt động tiêu thụ lúa gạo. Đầu ra sản phẩm lúa gạo chưa thật sự ổn định và thường bị động trước sự biến động của thị trường. Liên kết sản xuất không bền vững, đặc biệt là liên kết giữa người sản xuất, hợp tác xã và doanh nghiệp còn lỏng lẻo và ngắn hạn. Việt Nam được biết đến là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, nhưng thất thoát sau thu hoạch lúa còn cao, hiện tại ở mức khoảng 10%.
Ông Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký ngành hàng lúa gạo Việt Nam, cho biết: “Những thách thức trong sản xuất lúa gạo cần chú ý và khắc phục đó là thay đổi nhận thức của nông dân, tăng cường cho chuyên môn và quản lý của ngành chức năng. Cần thay đổi tập quán canh tác truyền thống, tăng cường ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chú ý đầu tư giảm chi phí ban đầu. Khắc phục tình trạng thiếu hụt thông tin và kiến thức cho nông dân, đơn vị quản lý; tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, liên kết sản xuất, tăng giá trị chuỗi ngành hàng. Quản lý chặt chẽ nguồn phát thải, khả năng kiểm tra và chứng nhận; ứng phó BĐKH và tăng quy mô, liên kết trong sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn, bao tiêu sản phẩm…”.
Giải pháp thiết thực
Theo Đại học Cần Thơ, BĐKH là một vấn đề mang tính toàn cầu và đang làm thay đổi các điều kiện thời tiết và thủy văn của vùng ĐBSCL, đặc biệt là nước lũ ở vùng ĐBSCL có xu thế thấp dần và kết thúc sớm, xâm nhập mặn diễn ra bất thường, xuất hiện sớm hơn so với trước đây từ 1-1,5 tháng và vào đất liền sâu hơn. Những sự thay đổi này đã tác động đến hoạt động sản xuất lúa gạo của vùng ĐBSCL bao gồm làm giảm đất lúa do nước biển dâng và xâm nhập mặn, làm nhiều vùng không còn khả năng canh tác, ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của cây lúa, gia tăng dịch bệnh, làm giảm chất lượng và năng suất lúa, tác động đến thu nhập và sinh kế người dân, đe dọa đến an ninh lương thực của vùng và quốc gia. Theo dự báo, BĐKH sẽ diễn ra nghiêm trọng hơn ở vùng ĐBSCL trong những năm tới.
GS.TS Trần Ngọc Hải, Phó Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ, cho biết: “Đề án một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL không chỉ là mục tiêu nâng cao giá trị hạt gạo Việt Nam, mà còn là bước đi tiên phong trong việc xây dựng nền nông nghiệp xanh, bền vững, thích ứng với BĐKH. ĐBSCL là một trong những vựa lúa trọng điểm của cả nước đang chịu nhiều tác động từ xâm nhập mặn, nước biển dâng, BĐKH, vì vậy, việc triển khai đề án này chính là cơ hội để các địa phương vùng ĐBSCL vừa nâng cao hiệu quả kinh tế, vừa giảm phát thải khí nhà kính, đóng góp vào cam kết của Việt Nam về phát triển bền vững trong những năm tới”.

Mô hình ứng dụng công nghệ, cơ giới hóa hiện đại trong sản xuất nông nghiệp đang phát triển tại TP Cần Thơ. Trong ảnh: Nông dân sử dụng thiết bị bay điều khiển từ xa phun thuốc trên ruộng lúa ở xã Cờ Đỏ, TP Cần Thơ.
Đề án phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030 mang ý nghĩa chiến lược nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam, đồng thời giảm đáng kể phát thải khí nhà kính và phát triển nông nghiệp bền vững. Mục tiêu cụ thể của đề án là tăng thu nhập cho nông dân, giảm chi phí sản xuất, cải thiện môi trường, thích ứng với BĐKH và góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về giảm phát thải carbon, hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Giai đoạn đầu của đề án (2024-2025) củng cố 180.000ha đã có từ Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSAT), tập trung vào tập huấn, xây dựng kế hoạch, thiết lập hệ thống đo đạc - báo cáo - thẩm định (MRV), kiểm đếm và thí điểm cấp tín chỉ carbon. Giai đoạn 2 (2026-2030) mở rộng thêm 820.000ha mới, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tổ chức lại sản xuất, xây dựng chuỗi giá trị và hoàn thiện hệ thống MRV.
Mới đây, tại Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp hỗ trợ cho Đề án một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao phát thải thấp ở ĐBSCL”, các nhà khoa học, chuyên gia đã nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của mối quan hệ đối tác chặt chẽ giữa các tổ chức học thuật, cơ quan quản lý, doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức quốc tế. Những hợp tác này là rất cần thiết để xây dựng năng lực, chuyển giao công nghệ và mở rộng thực hành bền vững trên khắp ĐBSCL, đưa Đề án một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp thành một hình mẫu toàn cầu về phát triển bền vững...
Ông Lê Thanh Tùng nhấn mạnh: Phương thức hợp tác trong thực hiện đề án một triệu héc-ta là mối quan hệ giữa đơn vị khoa học công nghệ (viện, trường, trung tâm) và các doanh nghiệp, hợp tác xã, địa phương, cơ quan chuyên môn, khuyến nông, tổ chức quốc tế. Nội dung hợp tác là hỗ trợ, truyền tải khoa học công nghệ trong quy trình sản xuất lúa với những vấn đề liên quan đến giảm chi phí, giảm phát thải, tăng trưởng xanh. Ứng dụng khoa học công nghệ trong các mùa vụ, vùng canh tác và các yếu tố phi sinh vật có liên quan. Gia tăng chất lượng và an toàn thực phẩm đối với sản xuất lúa gạo. Hợp tác trong xây dựng vùng nguyên liệu có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cơ giới hóa, số hóa các hoạt động quản trị sản xuất lúa. Hợp tác trong tổ chức triển khai đề án, giải quyết những thách thức cụ thể của từng địa phương trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm…
Bài, ảnh: HÀ VĂN