04/03/2025 - 06:27

Ngành tôm và chuyện hợp tác, liên kết 

Hiện hầu hết các thị trường đều yêu cầu gắt gao về truy xuất nguồn gốc, an toàn vệ sinh thực phẩm, phúc lợi động vật, phát thải khí nhà kính và xa hơn là kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn… đối với sản phẩm tôm. Do đó, để đáp ứng tốt các yêu cầu của thị trường và nâng sức cạnh tranh cho ngành tôm, bên cạnh việc phát triển các mô hình nuôi quy mô lớn, các giải pháp tăng tỷ lệ nuôi thành công, giảm chi phí sản xuất… thì việc tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết chuỗi một cách thực chất và hiệu quả là rất quan trọng.

Tăng trưởng nhưng chưa bứt phá

Theo ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, những năm gần đây, ngành tôm Cà Mau nói riêng và các tỉnh ven biển nói chung đều có sự tăng trưởng, nhưng rất chậm khi chỉ loanh quanh ở con số sản lượng trên dưới 1 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu 3-4 tỉ USD. Riêng đối với Cà Mau, qua ghi nhận có thể thấy, việc tăng năng suất các mô hình nuôi còn khá chậm, thậm chí một số mô hình như: quảng canh, quảng canh cải tiến năng suất có phần đi lùi. Do đó, trong vụ tôm năm 2025, Cà Mau đặt mục tiêu phấn đấu nâng năng suất mô hình quảng canh cải tiến lên 450-650kg/ha gắn với tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết chuỗi giá trị.

Dư địa ngành tôm còn rất lớn nếu có giải pháp đồng bộ, cơ chế đặc thù để khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao.

Báo cáo của Cục Thủy sản, cho biết năm 2024 sản xuất nuôi tôm nước lợ năm 2024 đạt vượt kế hoạch đề ra cả về sản lượng lẫn kim ngạch xuất khẩu. Đóng góp lớn cho thành tích sản lượng và kim ngạch xuất khẩu phải kể đến sự thành công của những mô hình nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao, khi chỉ chiếm 19,2% về diện tích, nhưng đóng góp đến 78,5% về sản lượng. Theo đánh giá của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Phùng Đức Tiến, ngành tôm vẫn còn 1 số chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật chưa có sự bứt phá mạnh. Điều này thể hiện qua tỷ lệ nuôi thành công thấp; dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp, môi trường vẫn còn ô nhiễm, chất lượng con giống chưa đảm bảo, giá thành sản xuất tôm còn cao hơn các nước… là nguyên nhân làm cho sức cạnh tranh thấp, hiệu quả ngành tôm chưa đạt như kỳ vọng, đặc biệt là ở khâu nuôi. Vì vậy, cần có những tổng kết, đánh giá để chọn mô hình phù hợp với từng điều kiện sinh thái, từng quy mô để việc nhân rộng được dễ dàng và hiệu quả.

Dư địa và thách thức

Hiện diện tích nuôi thâm canh, siêu thâm canh chỉ mới chiếm khoảng 19,2% nhưng đóng góp đến 78,5% sản lượng, nên theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, chỉ cần có giải pháp, chính sách khuyến khích phát triển các mô hình nuôi tôm hiệu quả theo hướng ứng dụng công nghệ cao, nuôi tôm tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính… thì sản lượng và giá trị của ngành tôm sẽ còn lớn hơn nữa. Do đó, dù các dự báo đều cho thấy, năm 2025 tiếp tục sẽ là một năm khó, nhưng ngành tôm vẫn mạnh dạn đề ra mục tiêu tiếp tục tăng tốc nhằm tạo tiền đề cho mục tiêu tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026-2030.

Liên quan đến khó khăn, thách thức của ngành tôm, theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, thế giới luôn thay đổi cả về thương mại, nhu cầu lẫn xung đột và cùng với đó là những vấn đề nội tại, như môi trường, dịch bệnh, hạ tầng, quy mô nuôi nhỏ lẻ, hợp tác và liên kết… tất cả đều là những thách thức không hề nhỏ của ngành tôm. Do đó, để giải quyết những khó khăn của ngành tôm, nhằm giúp ngành tôm bứt phá trong năm 2025 cần tập trung vào các điểm nhấn quan trọng, gồm: con giống, mô hình, tổ chức và liên kết sản xuất… Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: “Trước mắt, cần tập trung quan tâm nhiều hơn đến vùng nuôi để làm sao có được tỷ lệ thành công cao, giá thành hợp lý, sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường cho người nuôi”.

Thực tế cho thấy, hiệu quả từ sản xuất nhỏ lẻ, cá thể đang ngày càng giảm đi do điều kiện thời tiết, môi trường, dịch bệnh… ngày càng bất lợi hơn. Trong khi đó, các yêu cầu tiêu chuẩn, chất lượng, nguồn gốc từ thị trường ngày một cao hơn, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Vì vậy, đã đến lúc, người nuôi tôm cần phải suy nghĩ lại một cách nghiêm túc về con đường làm ăn hợp tác và liên kết theo chuỗi giá trị. Phải xem nghề nuôi tôm là cách làm kinh tế nông hộ chứ không còn là chuyện sản xuất, là sinh kế đơn thuần nữa. Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, nêu rõ: “Chỉ khi nào sự hợp tác, liên kết trong chuỗi giá trị con tôm được thực hiện một cách thực chất và hiệu quả thì đời sống, sản xuất của người nuôi tôm mới được ổn định, ngành tôm mới đủ sức đi nhanh và đi xa được”.

Đồng quan điểm nhận định trên, ông Võ Quan Huy, Chủ tịch Hiệp hội tôm Mỹ Thanh, cho rằng chỉ có hợp tác, liên kết tốt thì mới hình thành được chuỗi giá trị ngành hàng một cách hoàn chỉnh, mới giải quyết được bài toán cơ sở hạ tầng, vốn, khoa học công nghệ, từ đó giúp tăng năng suất, giảm giá thành và tiến tới phát triển xanh, bền vững. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đồng tình cho rằng, ngành tôm không có con đường nào khác là phải thực hiện theo xu thế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát thải thấp và giá thành cạnh tranh thì mới có thể nâng cao được sức cạnh tranh và giữ vững vị thế. Và để đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này, ngành tôm cần phải tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác và liên kết.

Giá tôm thời gian tới vẫn khá tốt cho người nuôi

Theo ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, hiện trong kho của hầu hết các nhà phân phối lớn, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gần như không còn tôm kích cỡ lớn (cỡ từ 30 con/kg về lớn). Do đó, đã có khách hàng đẩy giá mua tôm thẻ cỡ 30 con/kg lên thêm 1 USD/kg nhưng doanh nghiệp đành từ chối vì không có tôm để chế biến. Khả năng thiếu tôm cỡ lớn trong thời gian tới sẽ còn rất lớn do tác động từ dịch bệnh, thời tiết làm cho việc nuôi tôm về cỡ lớn rất khó khăn. Giá tôm tới đây vẫn sẽ còn khá tốt, người nuôi vẫn sẽ có lợi nhuận cao nếu nuôi đạt năng suất và đặc biệt là nuôi được về cỡ lớn.

 

Bài, ảnh: HOÀNG NHÃ

Chia sẻ bài viết