21/10/2009 - 07:58

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng cường sự ổn định của kinh tế vĩ mô và ngăn chặn lạm phát cao trở lại

 

Ngày 20-10, tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XII, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2009 và nhiệm vụ năm 2010. Báo Cần Thơ xin trân trọng giới thiệu toàn văn báo cáo của Chính phủ:

 

 

Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,

Thưa đồng bào, đồng chí,


Để chuẩn bị cho Kỳ họp quan trọng này của Quốc hội, sau khi tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã hoàn chỉnh và gửi trước đến các vị đại biểu Quốc hội Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010; Báo cáo kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2009, dự toán ngân sách nhà nước năm 2010, cùng với nhiều báo cáo chuyên đề khác [1] . Hôm nay, thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo với Quốc hội và đồng bào cả nước một số vấn đề lớn về tình hình kinh tế, xã hội năm 2009 và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2010.


Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH TẾ, XÃ HỘI NĂM 2009

Chúng ta thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2009 trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động đến hầu hết các nước. Là một nền kinh tế có độ mở lớn, hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, khủng hoảng và suy thoái đã tác động nghiêm trọng đến kinh tế nước ta, nhất là xuất khẩu, đầu tư, du lịch. Ở trong nước, hệ quả của các biện pháp kiềm chế lạm phát thực hiện trong năm 2008 cùng với thiên tai dịch bệnh liên tiếp xảy ra làm trầm trọng thêm những khó khăn yếu kém của nền kinh tế; các thế lực thù địch lại tăng cường hoạt động chống phá. Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã thường xuyên cập nhật thông tin, phân tích tình hình và ngay từ đầu tháng 10-2008 đã có bước điều chỉnh mục tiêu hành động, trong đó xác định chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế cùng với việc kiềm chế lạm phát. Những tháng tiếp theo, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế phát triển rất nhanh và tác động tiêu cực ngày càng lớn. Trong suốt quý IV, Chính phủ đã thảo luận nhiều lần, tham khảo ý kiến của các chuyên gia để hình thành chính sách và giải pháp thích hợp. Đầu tháng 12-2008 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 30 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, tại kỳ họp thứ 5, Chính phủ đã trình và được Quốc hội chấp nhận điều chỉnh mục tiêu tổng quát, trong đó chuyển từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ưu tiên ngăn chặn suy giảm kinh tế, một số chỉ tiêu cụ thể về kinh tế và ngân sách cũng đã được điều chỉnh. Đây là sự chuyển hướng quan trọng, kịp thời, đúng đắn và cũng rất khó khăn trước tình hình diễn biến rất phức tạp, thể hiện bước tiến mới về năng lực lãnh đạo, trình độ dự báo và khả năng phản ứng chính sách của Đảng và Nhà nước ta.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, sự ủng hộ và giám sát của Quốc hội, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng toàn dân toàn quân, của cộng đồng doanh nghiệp và sự điều hành quyết liệt của chính quyền các cấp, đến nay, tuy khó khăn, thách thức còn nhiều nhưng tình hình kinh tế, xã hội đã có những chuyển biến tích cực. Trên cơ sở kết quả 9 tháng đầu năm và dự kiến mức thực hiện trong các tháng cuối năm, Chính phủ đánh giá tình hình kinh tế, xã hội năm 2009 như sau:

I. NHỮNG KẾT QUẢ CHỦ YẾU

1 . Ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng khá và tăng được nguồn lực đầu tư phát triển trong điều kiện kinh tế thế giới suy thoái

Nội dung chủ yếu của Nghị quyết 30 là tập trung tháo gỡ mọi khó khăn để phát triển sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, mở rộng thị trường nội địa, kích cầu đầu tư và hỗ trợ tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế làm giảm thu nhập và sức mua toàn cầu; cạnh tranh về giá trên thị trường là cạnh tranh gay gắt nhất. Trong khi đó, mặt bằng lãi suất năm 2008 của nước ta đã hình thành ở mức rất cao, làm tăng chi phí vốn và giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính phủ đã cân nhắc nhiều mặt và sau khi giảm lãi suất cơ bản xuống mức hợp lý, đã quyết định hỗ trợ lãi suất vay vốn lưu động 4%/năm, thực hiện từ tháng 4 đến hết tháng 12-2009 cho tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh; đến cuối tháng 9 tổng dư nợ cho vay thực hiện các chính sách hỗ trợ lãi suất là khoảng 405 nghìn tỉ đồng (các doanh nghiệp ngoài nhà nước vay 84%, doanh nghiệp nhà nước vay 16%). Đồng thời đã giao Ngân hàng Phát triển Việt Nam bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đến nay đã bảo lãnh cho 1.110 dự án kinh doanh với tổng mức vốn được bảo lãnh là 8.365 tỉ đồng, số lượng chưa lớn nhưng là sự mở đầu quan trọng, tạo cơ sở để tiếp tục hoàn thiện và thực hiện cơ chế rất cần thiết này. Phần lớn các doanh nghiệp được khảo sát đã chuyển được sự hỗ trợ của Chính phủ thành sức gia tăng của sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh, duy trì hoạt động và tạo thêm việc làm [2] .Thực hiện các biện pháp để mở rộng thị trường, tăng thêm ngân sách và đa dạng hóa các hoạt động xúc tiến thương mại, mặc dù giá hàng xuất khẩu giảm mạnh nhưng số lượng hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của nước ta đều tăng, thể hiện sự phát triển của sức sản xuất [3] . Riêng xuất khẩu gạo cả năm đạt khoảng 6 triệu tấn, mức cao nhất từ trước tới nay.

Mở rộng thị trường nội địa là một chủ trương được tập trung chỉ đạo. Đã triển khai cuộc vận động “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Chính phủ đã bố trí ngân sách xúc tiến thương mại trên thị trường nội địa. Các hoạt động mở rộng thị trường trong nước đã được doanh nghiệp tích cực thực hiện, nhiều doanh nghiệp đã tổ chức đưa hàng Việt về nông thôn. Mặt khác để kích cầu tiêu dùng, đã miễn, giảm, giãn hoãn thời gian nộp một số loại thuế, với tổng số khoảng 20.000 tỉ đồng (miễn giảm 13.700 tỉ đồng, giãn là 6.300 tỉ đồng); hỗ trợ lãi suất cho nông dân mua máy nông nghiệp, vật tư phục vụ sản xuất, xây dựng nhà ở...; cho vay không lãi để phát triển hạ tầng thiết yếu trong nông nghiệp, nông thôn. Với các chính sách và giải pháp thiết thực đó, tổng giá trị hàng hóa bán lẻ và tiêu dùng dịch vụ 9 tháng đầu năm 2009 tăng 18,6% so với cùng kỳ, ước tính cả năm tăng khoảng 20%, nếu loại trừ tăng giá vẫn tăng trên 10%, cao hơn năm 2008, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Các chính sách hỗ trợ nêu trên cũng làm giảm bớt nỗi vất vả của bà con nông dân, thúc đẩy cơ khí hóa nông nghiệp; lượng sản xuất và tiêu thụ máy kéo, xe vận chuyển, máy bơm nước, máy gặt đập liên hợp... tăng mạnh [4].

Đã tăng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ, tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng, vào nông nghiệp và nông thôn, các công trình văn hóa xã hội, chủ yếu là y tế, giáo dục, xây dựng ký túc xá cho sinh viên và nhà ở cho người nghèo. Những công trình này đã góp phần tăng GDP trong ngành xây dựng, có tác dụng lan tỏa sang các ngành sản xuất và giải quyết một bước những khó khăn đã tồn tại nhiều năm. Để khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ đã hỗ trợ lãi suất tín dụng đầu tư thời gian 2 năm; đồng thời tăng cường các biện pháp xúc tiến đầu tư, thu hút đầu tư từ nước ngoài và vốn viện trợ phát triển. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 708,5 nghìn tỉ đồng, bằng 42,2% GDP , tăng 16% so với năm 2008. Trong điều kiện khó khăn việc tăng được vốn đầu tư toàn xã hội là rất có ý nghĩa cả trước mắt và lâu dài. Vốn đầu tư tăng thêm, thủ tục đầu tư, xây dựng có bước được cải tiến, nhất là sau khi Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản đã tạo thêm xung lực mới cho tăng trưởng. Đến hết tháng 9 tỷ lệ giải ngân đạt 67,3%, mức cao nhất trong nhiều năm lại đây.

Nhờ các giải pháp tổng hợp nêu trên, chúng ta đã sớm ngăn chặn được đà suy giảm. Các doanh nghiệp đã vượt qua được thời điểm khó khăn nhất, sản xuất được phục hồi và có bước phát triển, lao động được thu hút trở lại; 76 nghìn doanh nghiệp mới được thành lập, tạo thêm trên 1,5 triệu chỗ làm việc. Từ quý II, giá trị sản xuất công nghiệp đã tăng trở lại một cách ổn định, tháng sau cao hơn tháng trước [5], 9 tháng tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2008 và dự kiến cả năm tăng khoảng 7,2%. Giá trị tăng thêm của ngành xây dựng từ âm 0,4% năm 2008 tăng lên 11,3% năm 2009. Giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ tăng khoảng 6,5%. Vượt qua thiên tai, dịch bệnh, nông nghiệp phát triển khá ổn định, giá trị sản xuất 9 tháng tăng 2,6%, dự kiến cả năm tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) quý sau tăng cao hơn quý trước: quý I: 3,14%, quý II: 4,46%, quý III: 5,76%, 9 tháng đầu năm tăng 4,56% dự kiến cả năm tăng khoảng 5,2% đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra [6].

2. Bảo đảm được ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội

Để ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và không để lạm phát cao trở lại, đã nhanh chóng chuyển chính sách tài chính, tiền tệ từ thắt chặt sang thực hiện chính sách tài chính tích cực và chính sách tiền tệ nới lỏng, linh hoạt , thận trọng .

Mặc dầu phải giảm các khoản thuế, tăng chi cho kích thích tăng trưởng và an sinh xã hội nhưng nhờ sớm ngăn chặn được suy giảm, sản xuất kinh doanh phục hồi và có bước phát triển nên tổng thu ngân sách nhà nước năm 2009 dự kiến đạt khoảng 390,65 nghìn tỉ, bằng 100,2 % kế hoạch dự toán; bội chi ngân sách được khống chế ở mức 6,9% GDP. Tỷ lệ dư nợ quốc gia so với GDP khoảng 29,7%, vẫn trong giới hạn an toàn.

Thực hiện các biện pháp kiềm chế nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu, nhập khẩu giảm mạnh hơn xuất khẩu nên tỷ lệ nhập siêu giảm còn khoảng 16,5% so với 28,8% năm 2008. Các nhu cầu cơ bản về ngoại tệ được bảo đảm với tỷ giá tương đối ổn định. Dự trữ ngoại hối nhà nước vẫn duy trì ở mức bảo đảm 12 tuần nhập khẩu.

Việc thực hiện chính sách tiền tệ được giám sát chặt chẽ. Tổng phương tiện thanh toán ước tính cả năm tăng khoảng 25%; tổng dư nợ tín dụng tăng khoảng trên 30%. Tỷ lệ nợ xấu dưới mức 3%; hệ thống ngân hàng bảo đảm được an toàn và có bước phát triển.

Giá cả tương đối ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 tăng 4,11% so với tháng 12-2008, ước cả năm tăng khoảng 7%. Các mặt hàng xăng dầu, điện, than được chuyển sang cơ chế giá thị trường theo lộ trình, không gây xáo trộn lớn.

Việc chủ động chuyển hướng điều hành các chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt, đồng bộ và phù hợp với tình hình thực tế đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế được lạm phát ở mức chỉ bằng 1/3 của năm 2008.

3. Thực hiện có kết quả việc bảo đảm an sinh xã hội, quan tâm chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính sách, những vùng khó khăn; các lĩnh vực văn hóa, xã hội có bước phát triển mới trong điều kiện kinh tế suy giảm. Đặc biệt coi trọng an sinh xã hội và quan tâm chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính sách và những vùng khó khăn là nét nổi bật trong năm 2009. Cùng với việc bảo đảm đủ nguồn lực và tăng cường chỉ đạo thực hiện các chính sách, chương trình, dự án đã có, đã sửa đổi bổ sung và ban hành nhiều chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội mới như: hỗ trợ người nghèo ăn Tết và người lao động mất việc; trợ cấp khó khăn cho cán bộ công chức có thu nhập thấp trong 4 tháng đầu năm; hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo; triển khai chương trình giảm nghèo ở 62 huyện; hỗ trợ khuyến nông, khuyến ngư ở địa bàn khó khăn; xây dựng các công trình cấp nước trên các đảo có đông dân cư, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ lãi suất vay mua vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn; xây dựng ký túc xá cho sinh viên; chính sách xây dựng nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp ở đô thị [7] ; điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung và tiền lương tối thiểu trong khu vực doanh nghiệp...

Tổng số chi cho an sinh xã hội ước khoảng 22.470 tỉ đồng, tăng 62% so với năm 2008. Chi điều chỉnh tiền lương, trợ cấp, phụ cấp khoảng 36.700 tỉ đồng. Trợ cấp cứu đói giáp hạt và khắc phục thiên tai 41.580 tấn gạo (riêng số gạo cứu trợ đợt đầu khắc phục hậu quả bão số 9 là 10.300 tấn). Tổng dư nợ của 18 chương trình cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách do Ngân hàng Chính sách Xã hội thực hiện ước đến cuối năm đạt 76 nghìn tỉ đồng, tăng 45,3% so với năm 2008. Các doanh nghiệp đã hỗ trợ 62 huyện nghèo trên 1.600 tỉ đồng. Kết quả các nỗ lực chung đó đã góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là đối với người nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm, đến cuối năm còn khoảng 11%.

Các lĩnh vực văn hóa xã hội tiếp tục có bước phát triển tích cực. Hệ thống pháp luật và các định hướng phát triển về giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, khoa học công nghệ và môi trường tiếp tục được hoàn thiện. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa và thực hiện nhiều chính sách, giải pháp thích hợp để phát triển các lĩnh vực này.

Quy mô giáo dục, đào tạo các cấp học đều tăng [8]. Số học sinh bỏ học giảm 41% so với năm học trước. Có thêm 8 tỉnh đạt phổ cập trung học cơ sở, nâng số tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập trung học cơ sở lên 55. Kế hoạch xây dựng trường và nhà công vụ được triển khai tích cực [9]. Năm 2009, có trên 1,4 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn tín dụng ưu đãi (chiếm khoảng 30% học sinh, sinh viên), với tổng dư nợ khoảng 18.800 tỉ đồng, tăng gần gấp đôi năm 2008.

Hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ được đầu tư phát triển đồng bộ hơn, nhiều tổ chức hoạt động hiệu quả theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm hoặc cơ chế doanh nghiệp. Các khu công nghệ cao đang được khẩn trương xây dựng và bước đầu đã có sản phẩm [10]. Số lượng giao dịch mua bán công nghệ tăng khoảng 37%. Công nghệ thông tin và truyền thông phát triển mạnh . Hạ tầng mạng được mở rộng và nâng cấp tạo điều kiện phủ sóng đến các vùng sâu, vùng xa, biển Đông và hải đảo. 9 tháng thuê bao điện thoại phát triển mới tăng 74,1% so cùng kỳ, nâng tổng số thuê bao toàn mạng đạt 113,6 triệu; số người sử dụng dịch vụ Internet là 22,4 triệu. Một số doanh nghiệp viễn thông và công nghệ thông tin đã đầu tư ra nước ngoài đạt kết quả bước đầu.

Đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp phòng chống dịch và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; tăng cường cán bộ y tế cho các tuyến dưới, nhất là các xã thuộc vùng khó khăn; đẩy mạnh xây dựng và trang bị kỹ thuật cho các cơ sở y tế [11] ; chỉ tiêu về số giường bệnh và số bác sĩ trên 1 vạn dân đạt và vượt kế hoạch đề ra [12] ; việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em được quan tâm; quản lý nhà nước về thuốc chữa bệnh được tăng cường; vệ sinh an toàn thực phẩm được coi trọng hơn. Có nhiều cố gắng trong việc thực hiện bình đẳng giới và bảo đảm các quyền của trẻ em. Văn hóa, thể thao có bước phát triển; hệ thống thiết chế văn hóa, công trình văn hóa quốc gia được quy hoạch và đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng; mức hưởng thụ văn hóa thông tin của nhân dân, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa được nâng lên [13].

Công tác quản lý, bảo vệ và sử dụng đất đai, tài nguyên, môi trường và việc kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm về môi trường có tiến bộ [14] . Việc xử lý chất thải y tế, chất thải đô thị, khu công nghiệp và xử lý ô nhiễm các lưu vực sông đạt được một số kết quả. Đã hình thành bước đầu kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng để làm căn cứ xây dựng các phương án ứng phó thích hợp [15] . Các cơ sở dự báo về khí tượng thủy văn được đầu tư nâng cấp. Công tác phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai được quan tâm chỉ đạo.

4. Cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm đạt được những kết quả tích cực Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội cơ bản được hoàn thành, chất lượng và tiến độ khá hơn. Các Bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành việc thống kê trên 5.700 thủ tục hành chính được thực hiện tại 4 cấp chính quyền. Chính phủ công bố cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính trên mạng internet. Lần đầu tiên các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố đã công khai bộ thủ tục hành chính của Bộ, ngành, địa phương mình, thể hiện một bước tiến mới trong cải cách thủ tục hành chính. Mô hình một cửa, một cửa liên thông, ứng dụng công nghệ thông tin và tiêu chuẩn ISO trong giải quyết thủ tục hành chính đang được tích cực triển khai tại các cơ quan hành chính nhà nước. Các cuộc họp, đối thoại trực tuyến đã góp phần nắm bắt nhanh tình hình, tháo gỡ kịp thời hơn các vướng mắc và tiết kiệm chi phí. Việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường được chuẩn bị chu đáo và triển khai thực hiện có kết quả. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện tiếp tục được rà soát, kiện toàn.

Đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để phòng chống tham nhũng và đạt được những kết quả thiết thực trên cả 2 mặt phòng và chống. Các hoạt động thanh tra, kiểm tra và điều tra, xử lý các vụ tham nhũng được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật [16] . Chính quyền các cấp giải quyết được khoảng 84% các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân, trong đó có những vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài. Việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được triển khai tích cực gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

5. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao

Công tác quốc phòng và an ninh tiếp tục được coi trọng; bảo đảm chủ quyền quốc gia và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các lực lượng vũ trang nhân dân đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố và tăng cường; xã hội đồng thuận; thực hiện tốt hơn dân chủ, tiến bộ công bằng xã hội và chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước . Đã xử lý đúng pháp luật các hành vi lợi dụng dân chủ, nhân quyền, chính sách tôn giáo, dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết và gây mất trật tự an toàn xã hội . Công tác phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội được quan tâm chỉ đạo và đã có những kết quả thiết thực.

Công tác đối ngoại đạt được kết quả khá toàn diện, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc biên giới trên bộ với Trung Quốc, tạo điều kiện rất quan trọng để xây dựng biên giới Việt - Trung hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển bền vững, lâu dài. Quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, các đối tác lớn có bước phát triển mới; đã ký kết và đưa vào thực thi Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản (VJEPA); tạo được bước phát triển sâu rộng hơn về hợp tác kinh tế với một số đối tác tại Trung Đông; mở rộng quan hệ với các nước châu Phi, Mỹ La tinh. Đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc...

Kết quả đạt được sau gần 3 năm gia nhập WTO tiếp tục khẳng định sự đúng đắn của chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Chủ động hội nhập càng sâu rộng thì lợi ích tổng thể càng lớn, vừa mở rộng thị trường ngoài nước, vừa thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Mặt khác, hội nhập cũng làm bộc lộ rõ hơn những bất cập, yếu kém và tính dễ tổn thương của nền kinh tế để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Chúng ta càng nhận thức rõ hơn phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

II. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM

Trong khi khẳng định những kết quả tích cực nêu trên, cần nghiêm túc nhận rõ những hạn chế, yếu kém nổi lên là:

1. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 thấp nhất trong 10 năm gần đây. Tăng trưởng chủ yếu vẫn theo chiều rộng, cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh còn thấp. Các doanh nghiệp và cả nền kinh tế chưa chuyển mạnh theo hướng biến thách thức thành cơ hội để cơ cấu lại sản xuất. Công nghiệp tuy đã vượt qua khó khăn, nhưng tăng trưởng vẫn ở mức thấp. Sản xuất nông nghiệp kém bền vững, giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất canh tác còn rất thấp. Xuất khẩu và du lịch giảm mạnh. Tiêu thụ hàng hóa còn khó khăn. Một số chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch.

2. Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế chưa thật vững chắc . Việc điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối chưa thật linh hoạt, dẫn đến tình trạng găm giữ đô-la, gây căng thẳng không đáng có và cán cân thanh toán tổng thể đã bị thâm hụt [17] , trong khi nguồn ngoại tệ của đất nước vẫn khá dồi dào. Bội chi ngân sách tăng và chính sách tiền tệ nới lỏng luôn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao trở lại. Việc quản lý và sử dụng tài sản công, ngân sách nhà nước cũng như vốn trong các doanh nghiệp nhà nước chưa thật chặt chẽ, hiệu quả còn thấp.

3. Kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực và thể chế kinh tế thị trường chưa có bước cải thiện đáng kể, hiện vẫn là những điểm nghẽn của tăng trưởng. Môi trường kinh doanh chưa thật thông thoáng. Bộ máy hành chính còn cồng kềnh, hiệu lực hiệu quả còn thấp. Năng lực và kinh nghiệm điều hành kinh tế vĩ mô vẫn còn hạn chế.

Mạng lưới giao thông chưa hoàn chỉnh, chất lượng thấp. Hệ thống thủy lợi chưa đồng bộ, hiệu quả quản lý và sử dụng chưa cao. Nguồn và lưới điện chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Hạ tầng đô thị, hệ thống cấp thoát nước vừa thiếu, vừa kém chất lượng, bị quá tải. Tình trạng ngập úng ngày càng tăng [18] . Quy hoạch xây dựng và quản lý đô thị vẫn còn nhiều yếu kém.

Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục, đào tạo còn bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực thấp. Năm 2009, tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt khoảng 38%; cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn còn khoảng 51,7%.

4. Do tác động của suy giảm kinh tế, việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội còn nhiều khó khăn. Chỉ tiêu tạo việc làm, xuất khẩu lao động không đạt kế hoạch, tỷ lệ lao động thất nghiệp thành thị tăng (4,66% so với 4,65% năm 2008). Quản lý nhà nước về lao động, nhất là lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam chưa tốt. Đời sống nhân dân ở một bộ phận không nhỏ còn nhiều khó khăn, số hộ nghèo và tái nghèo còn nhiều, nhất là ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số , vùng bị thiên tai, dịch bệnh. Một số chế độ, chính sách an sinh xã hội triển khai chậm, còn để xảy ra tiêu cực ở một số nơi. Tai nạn giao thông tuy có giảm nhưng vẫn còn nghiêm trọng [19] . Nạn ma túy, mại dâm, xâm hại trẻ em còn tăng ở một số địa phương.

Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của nhân dân chưa được cải thiện nhiều. Xã hội hóa triển khai chậm; vẫn còn tình trạng quá tải ở nhiều bệnh viện, nhất là tuyến trung ương và tuyến tỉnh; việc ngăn chặn dịch bệnh nhất là sốt xuất huyết [20] hiệu quả chưa cao; quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm chưa tốt.

Khoa học công nghệ chưa tạo được nhiều sản phẩm có giá trị nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh, bền vững. Xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường chuyển biến còn chậm, vẫn là thách thức lớn trong quá trình phát triển.

5. Kết quả cải cách hành chính vẫn còn thấp. Năng lực xây dựng thể chế còn yếu.Việc hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã có hiệu lực còn chậm [21] . Kết quả rà soát các văn bản hành chính cho thấy thủ tục hành chính của nước ta còn rất nặng nề, trong đó không ít những thủ tục phiền hà, không cần thiết, cần phải loại bỏ; chưa có cơ chế kiểm soát việc ban hành và thực hiện thủ tục hành chính. Năng lực tổ chức thực hiện còn kém, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, trung ương và địa phương trong điều hành chưa thật tốt. Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng. Kỷ luật kỷ cương chưa nghiêm. Khiếu nại, tố cáo vẫn còn nhiều, số lượng khiếu kiện đông người tăng hơn năm 2008 [22] .

Nhìn chung lại, năm 2009 là năm có rất nhiều khó khăn thách thức, nhưng nhờ sự đồng tâm hiệp lực của cả nước, tuy còn không ít hạn chế yếu kém, nhưng chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng, kinh tế đã thoát khỏi suy giảm và đạt tốc độ tăng trưởng khá, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế, an sinh xã hội được bảo đảm, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ năm 2010.

Phần thứ hai

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI NĂM 2010

Theo nhiều dự báo, kinh tế toàn cầu năm 2010 sẽ có chuyển biến tích cực hơn, nhưng khó khăn còn nhiều, những tín hiệu phục hồi vẫn còn yếu, nhất là những nền kinh tế hiện là nguồn đầu tư và thị trường xuất khẩu lớn của nước ta. Kinh tế thế giới vẫn đang biến động phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, khó lường. Sau khủng hoảng, quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và cải cách thể chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh hơn. Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường có thể sẽ được điều chỉnh lại. Cơ cấu sản xuất, tiêu dùng và chiến lược thị trường của nhiều quốc gia sẽ có sự thay đổi. Chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng. Tình hình đó đặt ra những vấn đề mới, tác động đến sự phát triển của nước ta.

Ở trong nước, những yếu kém vốn có của nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng thấp trong năm 2009 sẽ còn ảnh hưởng nhiều mặt đến sản xuất và đời sống. Hậu quả nặng nề của thiên tai, nhất là cơn bão số 9 ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên phải mất nhiều thời gian và nguồn lực mới khắc phục được; thiên tai, dịch bệnh có thể còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch vẫn âm mưu phá hoại sự ổn định chính trị - xã hội của nước ta.

Năm 2010 cũng là năm nước ta diễn ra nhiều sự kiện chính trị, ngoại giao, lịch sử, văn hóa trọng đại. Việc tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, hội nghị cấp cao ASEAN và các ngày lễ lớn trong năm, trong đó có Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội sẽ là động lực tinh thần to lớn, cùng với những kinh nghiệm và kết quả đạt được của năm 2009 sẽ là điều kiện thuận lợi rất quan trọng để chúng ta vượt qua khó khăn thách thức, thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2010 với mức cao hơn, lấy lại đà tăng trưởng nhanh và bền vững trong những năm tiếp theo.

I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT, NHIỆM VỤ VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

1. Mục tiêu tổng quát

Tập trung mọi nỗ lực phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009; nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng cường sự ổn định của kinh tế vĩ mô và ngăn chặn lạm phát cao trở lại; bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện một bước đời sống nhân dân; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh; phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010.

2. Các nhiệm vụ chủ yếu

Một là, khai thác mọi tiềm năng, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nội lực để đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.

Hai là, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, phấn đấu giảm nhập siêu và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; giảm dần bội chi ngân sách và thực hiện chính sách tiền tệ phù hợp để ngăn ngừa lạm phát cao và nâng cao tính ổn định của kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh.

Ba là, tập trung sức phát triển nông nghiệp và nông thôn; đẩy mạnh chương trình xây dựng nông thôn mới; phát triển nông nghiệp toàn diện, hiệu quả và bền vững; cải thiện một bước đời sống nông dân.

Bốn là, phát triển các lĩnh vực xã hội hài hòa với phát triển kinh tế; đẩy nhanh chương trình giảm nghèo vững chắc; tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng phúc lợi xã hội và an sinh xã hội; tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.

Năm là, tạo một bước tiến mới trong việc cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng hạ tầng giao thông, tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

Sáu là, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ các nguồn lực và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước.

3. Các chỉ tiêu chính của kế hoạch năm 2010

a) Các chỉ tiêu kinh tế

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6,5% so với năm 2009; GDP theo giá thực tế khoảng 1.931 nghìn tỉ đồng, tương đương 106 tỉ USD, bình quân đầu người khoảng 1.200 USD.

Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khoảng 2,8%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng khoảng 7%; khu vực dịch vụ tăng khoảng 7,5% so với năm 2009.

Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 6% so với năm 2009.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 41% GDP.

Tổng thu ngân sách nhà nước 456,4 nghìn tỉ đồng, tăng 16,8% so với ước thực hiện 2009.

Tổng chi ngân sách nhà nước 581,9 nghìn tỉ đồng, tăng 9,2% so ước thực hiện năm 2009.

Bội chi ngân sách nhà nước 125,5 nghìn tỉ đồng, bằng 6,5% GDP.

Chỉ số tăng giá tiêu dùng khoảng 7%.

b) Các chỉ tiêu xã hội

Số tỉnh đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở: 63 tỉnh.

Tuyển mới đại học, cao đẳng tăng 12%; trung cấp chuyên nghiệp tăng 15%; cao đẳng nghề và trung cấp nghề tăng 17%.

Mức giảm tỷ lệ sinh 0,2%o.

Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động, trong đó đưa 8,5 vạn lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%.

Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống 18%.

Số giường bệnh trên 1 vạn dân là 27,5 giường.

Diện tích nhà ở đô thị bình quân đầu người là 13,5 m2.

c) Các chỉ tiêu môi trường

Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh: 83%.

Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch: 84%.

Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý: 70%.

Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom: 85%.

Tỷ lệ chất thải rắn y tế được xử lý: 80%.

Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường: 45%.

Tỷ lệ che phủ rừng: 40%.

II. CÁC GIẢI PHÁP LỚN

1. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; đẩy mạnh sản xuất, phát triển dịch vụ; khẩn trương xây dựng đề án và thực hiện một bước tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng

Rà soát các quy định có liên quan đến tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh, nhất là các thủ tục gia nhập và rút khỏi thị trường, thủ tục hải quan, kê khai và nộp thuế, góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp kích thích phát triển kinh tế đã đề ra trong năm 2009 theo đúng nội dung và thời hạn quy định; đồng thời ban hành các chính sách mới hướng vào việc tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh.

Trong khi thúc đẩy chuyển dịch mạnh cơ cấu của nền kinh tế, tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm, cần nhận thức đúng vai trò quan trọng và lợi thế lớn của nền nông nghiệp nước ta trong việc bảo đảm an ninh, ổn định xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân và nông thôn; tạo bước chuyển mới trong việc phát triển nông lâm ngư nghiệp bền vững cả về sức sản xuất, chất lượng, hiệu quả và thị trường tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nông dân; thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Chuyển mạnh các chính sách hỗ trợ tăng trưởng vào khu vực nông nghiệp, nông thôn; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực này; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn. Rà soát lại quy hoạch và bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ để giảm chi phí sản xuất và thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến, bảo quản, gắn với phát triển các mô hình tổ chức sản xuất mới trong nông nghiệp, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung và chương trình đào tạo nghề cho nông dân. Ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất chất lượng và giá trị cao, nhất là giống lúa, ngô, cây ăn quả, thủy sản. Tăng đầu tư cho bảo quản, chế biến các loại nông lâm thủy sản, giảm tổn thất, tăng giá trị xuất khẩu. Đẩy mạnh trồng rừng, gắn với bảo vệ rừng và thực hiện các chính sách hỗ trợ để người làm nghề rừng có cuộc sống ổn định và được cải thiện. Xử lý nghiêm và ngăn chặn tình trạng phá rừng. Chú trọng xây dựng hạ tầng kỹ thuật ở những vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, quan tâm đầu tư cơ sở hậu cần nghề cá, bảo đảm phòng tránh thiên tai, tăng hiệu quả của đánh bắt xa bờ.

Hoàn thiện cơ chế điều hành xuất khẩu gạo theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm tăng hiệu quả xuất khẩu, tiêu thụ hết lúa hàng hóa với giá có lợi cho nông dân, giữ vững an ninh lương thực và bảo đảm giá gạo trên thị trường trong nước ở mức hợp lý.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và xây dựng. Chuyển dần từ công nghiệp gia công lắp ráp có giá trị gia tăng thấp sang công nghiệp chế tạo; phát triển công nghiệp tạo mẫu trong các ngành có lợi thế để có thể tham gia vào các công đoạn có giá trị gia tăng cao, có lợi nhuận lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển nhanh công nghiệp hỗ trợ; công nghiệp cơ khí, từng bước hình thành các cụm nhóm sản phẩm. Tăng nhanh năng lực chế tạo thiết bị và thiết bị đồng bộ phục vụ cho các ngành xi măng, phân bón, điện, đóng tàu và các thiết bị nổi, cơ khí phục vụ nông nghiệp... Điều chỉnh lại cơ cấu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực chế biến, chế tạo, các lĩnh vực công nghệ cao, tạo ra năng lực xuất khẩu mới. Hiện đại hóa ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, nâng cao năng lực công nghiệp xây lắp, hình thành các đơn vị xây lắp mạnh đáp ứng nhu cầu trong nước và đấu thầu quốc tế.

Hoàn thiện cơ chế quản lý và cải tiến thủ tục đầu tư, phân cấp mạnh về quyền hạn và trách nhiệm cho người quyết định đầu tư và chủ đầu tư. Đẩy nhanh tiến độ triển khai, thi công các công trình, ưu tiên cho các công trình điện, hạ tầng giao thông, đô thị, trước hết là ở những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, bảo đảm tính đồng bộ và khả năng kết nối các phương thức vận tải, giải tỏa nhanh các điểm nghẽn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thực hiện các giải pháp khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo các phương thức khác nhau; tranh thủ nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA), đặc biệt là các nguồn có ưu đãi cao. Quản lý chặt chẽ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ và vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, khắc phục đầu tư dàn trải, chống thất thoát và lãng phí, bảo đảm chất lượng công trình .

Phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, viễn thông, vận tải, du lịch, dịch vụ tư vấn. Tăng cường quản lý thị trường bất động sản, bảo đảm phát triển lành mạnh, bền vững. Khuyến khích đầu tư vào dịch vụ logistic để giảm giá thành vận tải và chi phí phân phối. Mở rộng thị trường nội địa, coi trọng thị trường nông thôn. Đa dạng hóa các kênh phân phối, phát triển các mô hình kinh doanh hiện đại kết hợp với các mô hình truyền thống. Tạo lập mối liên kết giữa nhà sản xuất với tổ chức phân phối để hình thành những kênh lưu thông hàng hóa ổn định, góp phần quản lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong suốt quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng , nâng cao uy tín của hàng Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước. Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại để bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và du lịch, tích cực khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do, tăng kim ngạch xuất khẩu, giảm dần nhập siêu. Thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.

Khẩn trương xây dựng và thực hiện một bước đề án tái cấu trúc nền kinh tế nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và giá trị nội địa của từng sản phẩm và của toàn bộ nền kinh tế. Thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp, xây dựng lực lượng doanh nghiệp dân tộc. Coi việc tăng giá trị nội địa và xây dựng lực lượng doanh nghiệp dân tộc là phương hướng chủ yếu để nâng cao tiềm lực và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế. Khuyến khích phát triển mạnh doanh nghiệp có sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là các công ty cổ phần để loại hình doanh nghiệp này ngày càng phổ biến trong nền kinh tế quốc dân. Đẩy mạnh cổ phần hóa và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước; hoàn thành việc chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; đề cao vai trò và trách nhiệm của chủ sở hữu Nhà nước trong việc định hướng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp Nhà nước, trước hết là các tập đoàn và Tổng công ty phải đi đầu trong việc đổi mới công nghệ và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh góp phần quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các nguồn lực phát triển. Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, từng bước hình thành những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ, có thương hiệu mạnh, có khả năng cạnh tranh quốc tế và tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

(Còn tiếp)

---------------------

[1] Gồm các báo cáo về: (1) Phương án phân bổ ngân sách trung ương và bổ sung ngân sách địa phương, (2) Công tác đối ngoại, (3) Quốc phòng, (4) An ninh, (5) Thi hành án, (6) Phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm, (7) Giải quyết khiếu nại và tố cáo của công dân, (8) Phòng chống tham nhũng, (9) Thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, (10) Quản lý vốn các tập đoàn và tổng công ty nhà nước, (11) Dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất và Thủy điện Sơn La, (12) Dự án Đường Hồ Chí Minh, (13) Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, (14) Điều chỉnh địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội, (15) Kết quả thực hiện các gói “kích thích kinh tế”, (16) Đề án “tái cấu trúc nền kinh tế”, (17) Chương trình giảm nghèo...
[2] Trong 180 doanh nghiệp được khảo sát ở Đà Nẵng có 63,3% số doanh nghiệp được vay vốn ngắn hạn hỗ trợ lãi suất, trong đó 87% doanh nghiệp vay để duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh; 95% doanh nghiệp giảm được giá thành sản phẩm; 83,9% doanh nghiệp cải thiện được khả năng cạnh tranh; 90% doanh nghiệp giữ ổn định và tăng sử dụng lao động và theo kết quả khảo sát ở một số địa phương, ngân hàng thương mại cho thấy hỗ trợ lãi suất có tác động giảm chi phí vay vốn của doanh nghiệp từ 30 - 36%.
[3] 9 tháng đầu năm 2009, về lượng xuất khẩu hạt điều tăng 6%, cà phê tăng 14,4%, chè tăng 21,7%, hạt tiêu tăng 52,1%, gạo tăng 34,1%, than đá tăng 2,4%, dầu thô tăng 8,6%, xăng dầu tăng 53,3%, cao su tăng 7%...
[4] Riêng Tổng công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam, 7 tháng đầu năm 2009, có sản lượng sản xuất và tiêu thụ máy kéo, xe vận tải tăng 84,77%; máy phun thuốc trừ sâu tăng 342,2%, máy bơm nước các loại tăng 159%; máy gặt đập liên hợp tăng 50,74%.
[5] So với cùng kỳ năm trước, tháng 1 giảm (-) 4,4%, tháng 2 tăng 2,5%, tháng 4 tăng 5,6%, tháng 5 tăng 6,8%, tháng 6 tăng 8,2%; tháng 7 tăng 7,6%; tháng 8 tăng 10,6%, tháng 9 tăng 13,8%.
[6] Việt Nam được đánh giá là nước có mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực. Theo dự báo của ADB (công bố tháng 9-2009): năm 2009 Indonesia : 4,3%; Malaysia : -3,1%; Philippines : 1,6%; Thailand : -3,2%; Singapore : -5%; Việt Nam : 4,7%; các nước châu Á đang phát triển: 3,9%. Theo IMF (công bố tháng 10-2009): năm 2009 Indonesia : 4,0%; Malaysia : -3,6%; Philippines : 1,0%; Thailand: -3,5%, Việt Nam 4,6%.

[7] Năm 2009, có 263 dự án nhà ở (trên 205 nghìn căn hộ) cho người thu nhập thấp, 264 dự án nhà ở (14 triệu m2) cho công nhân khu công nghiệp, 88 dự án ký túc xá sinh viên và 177 dự án cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long được đăng ký và thực hiện; chi 2.058 tỉ đồng hỗ trợ làm nhà ở cho 126,4 nghìn hộ nghèo (trong đó, có 77 nghìn hộ nghèo thuộc 62 huyện nghèo).
[8] Năm học 2008 - 2009, số học sinh mẫu giáo và phổ thông đạt 18,9 triệu em, tăng gần 5%; tuyển mới đại học và cao đẳng tăng 9,2% (hiện nay vẫn đang tiếp tục tuyển sinh, tỷ lệ này có thể gần đạt mục tiêu kế hoạch), trung cấp chuyên nghiệp tăng 11,4%, cao đẳng nghề và trung cấp nghề tăng 18,2%.
[9] Hai năm 2008 - 2009, triển khai xây dựng 45.533 phòng học và 13.221 nhà công vụ.
[10] Đến hết tháng 6-2009, cả nước đã có 2 khu công nghệ cao quốc gia (Hòa Lạc và thành phố Hồ Chí Minh), 8 công viên phần mềm, 12 khu nông nghiệp công nghệ cao, 17 phòng thí nghiệm trọng điểm, khoảng 100 viện nghiên cứu và 80 trường đại học cao đẳng có các hoạt động liên quan đến công nghệ cao.
[11] Trong năm 2009, khởi công xây dựng thêm 85 bệnh viện tuyến huyện và 16 bệnh viện đa khoa thuộc các tỉnh vùng núi, vùng khó khăn, các tỉnh mới chia tách.
[12] Số giường bệnh/1 vạn dân đạt 27/26,85 kế hoạch, bác sĩ đạt 6,5/6,5 kế hoạch.
[13] Năm 2009, có thêm 81 công trình văn hóa, di tích lịch sử, danh thắng cấp quốc gia được bảo tồn và phát huy giá trị (tăng 28,6% so với năm 2008); xây dựng thêm khoảng 300 nhà văn hóa cấp xã (tăng 15% so với năm 2008). Đã có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể là Quan họ Bắc Ninh và Ca trù được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đến cuối năm 2009 dự kiến có 99% số hộ nghe được Đài Tiếng nói Việt Nam, 98% số hộ xem được truyền hình Việt Nam.
[14] Năm 2009, ngành công an phát hiện, xử lý gần 2.000 vụ vi phạm về môi trường.
[15] Theo kịch bản, Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Thủ tướng đã chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu (công văn số 5319/VPCP-KTN ngày 5-8-2009); Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng xong kế hoạch này cho toàn ngành.
[16] Tính đến hết tháng 9-2009, cả nước phát hiện 326 vụ việc với 816 đối tượng có hành vi tham nhũng; khởi tố điều tra 297 vụ với 680 bị can; truy tố 163 vụ với 391 bị can; tổng số tiền, tài sản tham nhũng đã tịch thu sung công quỹ là 39,97 tỉ đồng.
[17] Cán cân vãng lai dự báo thâm hụt khoảng 6,5 tỉ USD, cán cân vốn thặng dư khoảng 7,3 tỉ USD, c án cân tổng thể dự báo thâm hụt khoảng 1,9 tỉ USD.

[18] - Các thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau, Hải Phòng, Vĩnh Long bị ngập lụt nặng do triều cường. Thành phố Huế và các đô thị khu vực Trung bộ bị ngập do lũ; Hà Nội và các đô thị vùng đồng bằng sông Hồng bị ngập do mưa.

[19] - 9 tháng đầu năm 2009, xảy ra 9.099 vụ tai nạn giao thông giảm 4,08 %; làm chết 8.057 người, giảm 1,15%, bị thương 5.726 người, giảm 7,05% so với cùng kỳ năm 2008.

[20] - Tính đến 11-9-2009, cả nước có trên 57.000 trường hợp mắc sốt xuất huyết (tăng 12,9% so với năm 2008), 44 trường hợp tử vong (giảm 10,2% so 2008).

[21] - Đến hết tháng 8-2009, còn nợ 28 văn bản hướng dẫn thi hành các luật đã có hiệu lực từ 1-7-2009.

[22] - Đến nay, tại 63 tỉnh, thành phố còn 1.924 vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, bức xúc, kéo dài; số lượt đoàn đông người tăng 48,8% so với năm 2008.

Chia sẻ bài viết