16/12/2008 - 08:39

Kinh tế nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long

Một năm nhìn lại

Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản của các tỉnh, thành ĐBSCL tiếp tục chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản cả nước. Đây là thế mạnh kinh tế của vùng này từ nhiều năm qua. Là vùng trọng điểm quốc gia về sản xuất nông, thủy sản, tuy nhiên, kinh tế nông nghiệp của các tỉnh thành trong khu vực vẫn còn gặp không ít khó khăn, bất cập…

“CƠN BÃO CÁ TRA”

Vài năm trước khi phong trào nuôi cá tra bắt đầu bùng phát, thiếu qui hoạch, các nhà khoa học, các cơ quan thông tin đại chúng đã cảnh báo những tác hại của tình trạng này. Kết cục, dẫn đến tình trạng khủng hoảng thừa cá tra, không tiêu thụ được do cá quá lứa, giá sụt giảm khiến người nuôi thua lỗ nặng. Nhà nước đã phải “bơm” 1.000 tỉ đồng để giải cứu người nuôi cá tra. Và mặc dù được giải cứu, nhưng “cơn bão mang tên cá tra” cũng đã đẩy nhiều người nuôi cá rơi vào tình trạng phá sản, nợ nần chồng chất.

Cuộc khủng hoảng thừa nguyên liệu cá tra cho thấy vấn đề quy hoạch vùng nguyên liệu, xây dựng mối liên kết giữa nông dân và nhà máy chế biến xuất khẩu vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Một số nông dân và doanh nghiệp vẫn làm ăn theo kiểu ăn xổi, ở thì. Mối quan hệ lỏng lẻo bộc lộ rõ khi cá tra khan hiếm, các nhà máy thiếu nguyên liệu thì người nuôi cá cố “neo” cá để đòi tăng giá ép doanh nghiệp và ngược lại thì doanh nghiệp ép giá người nuôi. Thậm chí, có trường hợp ký kết hợp đồng, nhưng cả doanh nghiệp và người nuôi cá sẵn sàng xé bỏ hợp đồng, chấp nhận bồi thường, miễn sao họ thu được lợi lớn hơn (số tiền bồi thường chỉ là một khoản tiền nhỏ so với số tiền thu được từ việc “bẻ kèo” hợp đồng). Tình trạng cá tra khi thiếu khi thừa tại ĐBSCL thể hiện rõ việc thiếu tính quy hoạch, dễ dẫn đến nguy cơ và rủi ro cao cho người nông dân. Việc tăng diện tích nuôi cá tra một cách ồ ạt, thiếu quy hoạch còn gây khó khăn cho việc đầu tư khoa học kỹ thuật, làm giảm chất lượng cá xuất khẩu, tăng độ rủi ro với người nuôi cá, gây những tác động xấu tới môi trường nước của khu vực ĐBSCL...

“CƠN ĐỊA CHẤN LÚA GẠO”

Cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu đầu năm 2008 khiến cả thế giới lo lắng, bàn các giải pháp kìm chế tăng giá lương thực. Thậm chí, ở những thời điểm “dầu sôi lửa bỏng” còn có quốc gia đề xuất thành lập một hiệp hội các nước xuất khẩu gạo, với mô hình phỏng theo OPEC (Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ).

Các tỉnh, thành khu vực ĐBSCL với tổng sản lượng lúa trung bình những năm gần đây trên 19 triệu tấn/năm, góp phần quan trọng đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và chiếm trên 90% sản lượng gạo xuất khẩu cả nước. Giá gạo tăng, nông dân ĐBSCL mừng vui ra mặt. Nhiều người vội vàng đốn bỏ vườn cây ăn quả để trồng lúa. Theo thống kê của Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sản lượng lúa ở khu vực ĐBSCL năm nay ước đạt gần 20,3 triệu tấn, tăng trên 1,6 triệu tấn. Nhưng khi sản lượng tăng thì nhiều nông dân lại khó bán được lúa thu hoạch từ vụ đông xuân trước. “Cơn sốt” lương thực trên thế giới cũng dần hạ nhiệt. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tụt giảm nhanh xuống mức không thể ngờ tới, chỉ còn khoảng 510-530 USD/tấn, giá lúa tại ĐBSCL xuống có lúc xuống chỉ còn 3.200-3.500 đồng/kg. Tình trạng lúa “được mùa, rớt giá” lại hoành hành, chưa có thuốc đặc trị.

Một lần nữa, Nhà nước lại phải tìm mọi biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp và nông dân để giải cứu lúa gạo. Cuộc giải cứu, theo đánh giá của các nhà khoa học nông nghiệp, mới chỉ là biện pháp mang tính chất tình thế. Nông dân ồ ạt tăng diện tích, lại trồng chủ yếu những giống lúa năng suất cao, chất lượng gạo thấp, chẳng hạn như giống lúa IR50404, nên khó khăn trong khâu tiêu thụ. Vả lại, nếu bán được nông dân cũng chịu với giá thấp hơn giá thành sản xuất, dẫn đến thua lỗ.

TRÁI CÂY “KHÓC”

Các tỉnh, thành ĐBSCL không chỉ có thế mạnh về cây lúa, con cá, con tôm mà còn có vườn trái cây đa dạng, nhiều chủng loại với diện tích khoảng 274.000 ha, sản lượng từ 2,3 - 2,7 triệu tấn/năm, chiếm 70% sản lượng trái cây của cả nước. Những loại trái cây có chất lượng nổi tiếng của vùng này như: sầu riêng cơm vàng hạt lép Chín Hóa, măng cụt Tân Quy, xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò Rèn, bưởi da xanh Hai Hoa, bưởi Năm Roi, khóm Cầu Đúc, dâu Hạ Châu, quýt Lai Vung... Tuy nhiên, việc sản xuất và tiêu thụ trái cây vẫn luôn trong tình trạng bấp bênh, thiếu ổn định. Chủ yếu trái cây được tiêu thụ thô (chưa chế biến) ngay tại thị trường nội địa, còn xuất khẩu vẫn chiếm một tỷ lệ khiêm tốn. Đầu ra hiện vẫn còn nhỏ hẹp, cộng thêm khâu bảo quản, giới thiệu, quảng bá kém, khiến trái cây lâm cảnh sụt giá liên miên.

 Chăm sóc tiêu ở huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Ảnh: NHẬT CHÁNH

Trái cây sụt giá, nông dân ở vào tình cảnh “dở khóc, dở mếu”. Đơn cử, giá chôm chôm chính vụ tại vùng sản xuất trái cây nổi tiếng các tỉnh khu vực ĐBSCL: Cái Bè (Tiền Giang), Chợ Lách (Bến Tre), Bình Hòa Phước (Vĩnh Long) có lúc giá xuống chỉ còn 1.500 đồng/kg, giá nhãn 2.000 đồng/kg, bưởi da xanh 2.500 đồng/kg (mức giá này thiết lập từ năm 2003). Với giá trái cây như vậy, người làm vườn thu lãi rất ít thậm chí thua lỗ. Bởi lẽ, giá vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu), giá thuê nhân công những năm gần đây liên tục tăng gấp 2- 3 lần, trong khi giá bán trái cây hầu như vẫn “giậm chân tại chỗ”.

NHỮNG VƯỚNG MẮC CẦN THÁO GỠ

Điểm yếu của sản xuất nông nghiệp tại ĐBSCL hiện nay là vẫn mang nặng tính tự phát, theo phong trào. Nghĩa là, nông dân hễ thấy cây gì, con gì bán được giá là họ đua nhau sản xuất. Trong khi đó, khâu tiếp thị quảng bá sản phẩm, dự báo, đánh giá nhu cầu thị trường, kênh phân phối nông sản vừa thiếu lại vừa yếu. Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, nhận định: Nông sản do nông dân làm ra thường qua các thương lái mới đến doanh nghiệp xuất khẩu. Chính những khâu trung gian này là nguyên nhân khiến nông sản phải gánh thêm các khoản chi phí, làm tăng giá thành. Mặc dù là vựa lúa gạo, thủy sản, trái cây nhưng việc thu mua hiện vẫn phụ thuộc vào đội ngũ các thương lái. Thương lái đã lợi dụng găm hàng, tạo ra cơn sốt “ảo”. Vụ “sốt gạo ảo” hồi tháng 4 vừa qua ở ngay vựa lúa ĐBSCL là một ví dụ điển hình về kênh phân phối yếu, kém.

Kết cục, khi nông sản rớt giá, tiêu thụ khó khăn, nông dân lập tức phá bỏ, nuôi trồng cây con khác. “Điệp khúc trồng, chặt” cứ tái diễn suốt nhiều năm qua ở ĐBSCL. Chúng ta không thể trách nông dân rằng tại sao không dự báo thị trường, để trồng và sản xuất những loại nông sản phù hợp với thị trường, bởi điều này nằm ngoài khả năng của họ. Và tất nhiên, chúng ta cũng không thể bắt buộc nông dân phải nuôi trồng loại cây con theo ý muốn chủ quan. Cá tra, lúa, trái cây rớt giá nguyên nhân xuất phát từ vấn đề thiếu quy hoạch vùng sản xuất, thiếu những dự báo cần thiết về thị trường và khâu tiếp thị quảng bá, phân phối nông sản. Vì thế, sản xuất nông sản ế thừa, nông dân sẽ gánh phần thua thiệt.

Việc quy hoạch vùng sản xuất cho từng loại nông sản, ở phạm vi một địa phương cũng rất khó thực hiện nếu không có sự liên kết với các địa phương khác và sự giúp đỡ từ phía Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương cùng các bộ, ngành hữu quan khác. Vấn đề ứng dụng khoa học kỹ thuật, chế biến nông sản, kênh phân phối, tiếp thị, quảng bá sản phẩm rất cần sự phối hợp liên kết giữa các địa phương trong khu vực cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương... Chừng nào những vướng mắc, hạn chế trên không được giải quyết, thì nông, thủy sản hàng hóa của ĐBSCL sẽ còn tiếp tục phải đối mặt với nguy cơ tổn thất lớn hơn.

Trong nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa hiện nay, khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hàng hóa nông, thủy sản của Việt Nam phải chấp nhận sự cạnh tranh với nông, thủy sản từ các nước trên thế giới. Tuy nhiên, nếu chúng ta có quy hoạch hợp lý cho từng loại nông, thủy sản, ứng dụng nhanh những thành tựu khoa học công nghệ để tăng năng suất, chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tổ chức chế biến, kênh phân phối tiêu thụ, quảng bá sản phẩm tốt thì tin rằng nông thủy sản Việt Nam, nông thủy sản ĐBSCL sẽ đủ sức cạnh tranh trên thị trường, giảm thiểu được những nguy cơ rủi ro, thiệt hại cho nền kinh tế và nông dân.

ĐĂNG QUANG

Chia sẻ bài viết