16/12/2015 - 21:30

Công chứng, chứng thực hợp đồng thực hiện các quyền của người sử dụng đất, nhà ở:

Khó khăn được tháo gỡ

Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất, nhà ở, Bộ Tư pháp vừa ban hành Công văn số 4233/BTP-BTTP gửi UBND các tỉnh, thành trực thuộc Trung ương. Từ đó, giúp các địa phương cũng như các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện đúng quy định pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để người sử dụng đất, nhà ở dễ dàng thực hiện các quyền của mình...

Theo Công văn số 4233/BTP-BTTP, các quy định có liên quan về vấn đề công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất, nhà ở trong Luật Đất đai năm 2013, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Công chứng năm 2014 và Nghị định số 23/2015/NĐ-CP (ngày 16-2-2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch) không có sự mâu thuẫn nhau. Cụ thể, Luật Đất đai quy định hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản 3 Điều 167 của Luật này.

 Người sử dụng đất làm thủ tục công chứng tại Văn phòng Công chứng Đông Nam.

Còn Luật Nhà ở quy định trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực; tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương; mua bán, cho thuê mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; mua bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở phục vụ tái định cư; góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ chức; cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở theo quy định tại khoản 2 Điều 122 thì không bắt buộc phải công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp các bên có nhu cầu. Như vậy, theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, cá nhân, tổ chức khi thực hiện các quyền của mình đối với quyền sử dụng đất, nhà ở được lựa chọn công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại UBND cấp xã. Việc công chứng được thực hiện theo thủ tục quy định tại Luật Công chứng năm 2014; việc chứng thực được thực hiện theo thủ tục quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP.

Thời gian qua, một trong những vướng mắc mà các địa phương gặp phải đó là nhầm tưởng việc công chứng và chứng thực là một. Theo Công chứng viên Trần Văn Bê, Trưởng Văn phòng Công chứng Đông Nam (ở huyện Thới Lai), công chứng và chứng thực là hai việc khác nhau. Bởi, công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; công chứng viên phải chịu trách nhiệm về nội dung của hợp đồng, giao dịch, chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình, bồi thường thiệt hại do mình gây ra trong quá trình hành nghề công chứng, nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Còn chứng thực là việc là việc UBND cấp xã chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; người yêu cầu chứng thực phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch.

Do đó, trong Công văn số 4233/BTP-BTTP, Bộ Tư pháp đã đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng và các Sở, ban, ngành có liên quan thường xuyên tổ chức tuyên truyền các quy định pháp luật có liên quan đến việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất, nhà ở cũng như pháp luật về công chứng, chứng thực. Mặt khác, khi tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, chứng thực, tổ chức hành nghề công chứng, UBND cấp xã phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực và pháp luật khác có liên quan; đồng thời, tuyên truyền, giải thích cho cá nhân, tổ chức hiểu rõ sự khác nhau và hệ quả pháp lý giữa công chứng và chứng thực. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng thấy hợp đồng, giao dịch đơn giản, các bên tin tưởng nhau thì Công chứng viên công chứng hoặc hướng dẫn cá nhân, tổ chức lựa chọn chứng thực tại UBND cấp xã; ngược lại, trường hợp hợp đồng, giao dịch phức tạp, tiềm ẩn rủi ro cho các bên, thì UBND cấp xã hướng dẫn cá nhân, tổ chức lựa chọn công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng.

Ngoài ra, vấn đề chuyển giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch từ UBND cấp xã, cấp huyện sang các tổ chức hành nghề công chứng tại một số địa bàn cấp huyện cũng được nhiều địa phương quan tâm, thắc mắc. Thực hiện Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19-10-2009 về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; (thời điểm thực hiện Luật Đất đai năm 2003), UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành quyết định chuyển giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch từ UBND cấp xã, cấp huyện sang các tổ chức hành nghề công chứng tại một số địa bàn cấp huyện. Nay, Nghị định số 88/2009/NĐ-CP đã bị bãi bỏ, thực hiện quy định của Luật Đất đai năm 2013, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Công chứng năm 2014 và Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, cũng theo Công văn số 4233/BTP-BTTP, Bộ Tư pháp đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không ban hành tiếp quyết định mở rộng phạm vi chuyển giao. Đồng thời cũng hướng dẫn cụ thể như: Đối với những địa bàn đã chuyển giao, đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở Tư pháp phối hợp với TAND, VKSND, Công an, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước, Sở Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng UBND, Văn phòng HĐND và Mặt trận Tổ quốc tỉnh khảo sát, đánh giá kết quả thực hiện việc chuyển giao, đề xuất ý kiến báo cáo UBND, HĐND cấp tỉnh. Trong trường hợp hoạt động công chứng đã ổn định, được nhân dân tin tưởng, góp phần phát triển tốt kinh tế - xã hội, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, giảm thiểu được rủi ro, tranh chấp về đất đai, nhà ở trên địa bàn thì không quyết định lại việc chuyển giao từ tổ chức hành nghề công chứng sang UBND cấp xã, cấp huyện. Qua đó, góp phần giảm tải công tác hành chính tư pháp cho UBND cấp xã, cấp huyện theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính và đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ công...

Bài, ảnh: CHẤN HƯNG

Chia sẻ bài viết