04/08/2018 - 09:11

GS.TS Hà Thanh Toàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ:

Kết nối với các địa phương và doanh nghiệp phát triển nông nghiệp công nghệ cao 

“Hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế và ứng phó với biến đổi khí hậu cùng với chủ trương phải tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, chúng ta buộc phải ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao (NN CNC) trong canh tác nông nghiệp và thủy sản. Trường Đại học Cần Thơ đang chuẩn bị đồng thời về con người, cơ sở vật chất và kế hoạch liên kết để thực hiện được các chương trình, dự án liên quan tới vấn đề này phục vụ cho ĐBSCL và nhiều địa phương khác trong nước. Tất cả đầu tư của trường về NN CNC, trước hết là phải gắn liền với thực tiễn để thầy cô và sinh viên thực hành”.

GS.TS Hà Thanh Toàn cho biết như thế.

* Cụ thể, trường đang làm những gì, thưa GS?

- Trước tiên là chuẩn bị về con người. Trường tập hợp đội ngũ các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ và chuyên viên liên quan lĩnh vực này, lập Ban Chỉ đạo ứng dụng NN CNC, do một phó hiệu trưởng phụ trách. Ban này sẽ tư vấn cho nhà trường việc hỗ trợ cho các tỉnh, thành, các doanh nghiệp, nhứt là ở ĐBSCL, để triển khai về NN CNC.

Sau đó, xây dựng chương trình đào tạo mới cho năm học tới 2019, đào tạo kỹ sư NN CNC. Chương trình đào tạo 4 năm, do Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng cùng với Khoa Thủy sản và nhiều đơn vị khác xây dựng. Ngoài ra, trong dự án ODA về nâng cấp nhà trường đạt chuẩn xuất sắc (2016-2022, trị giá 106 triệu USD), cũng có 3 chương trình đào tạo thạc sĩ NN CNC. Đó là chương trình nông nghiệp, thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu, hội nhập quốc tế và bảo vệ môi trường ĐBSCL, đặc biệt với vùng ven biển ngập mặn.

Thứ hai là chuẩn bị về cơ sở vật chất để thực hành thực tập và giảng dạy cũng như chuyển giao kỹ thuật công nghệ. Trường Đại học Cần Thơ đang xây dựng các trung tâm NN CNC để sinh viên và thầy cô giáo được liên kết với các địa phương và doanh nghiệp thực tập.

Những trung tâm này sẽ nối kết trực tiếp với nhiều trường đại học trên thế giới. Thí dụ Đại học Won Kwang của Hàn Quốc sẽ cùng với Đại học Cần Thơ xây dựng trung tâm NN CNC tại khu Măng Đen của tỉnh Kon Tum, nơi mà Đại học Cần Thơ vừa nhận được 25ha đất để xây dựng khu NN CNC. Tháng 10 tới sẽ khởi động để xây dựng trước các trạm trại, nhà lưới theo công nghệ của Hàn Quốc và họ sẽ cử một giáo sư qua vận hành trung tâm này. Sinh viên, thầy cô giáo của trường sẽ lên đó thực hành, thực tập để xây dựng mô hình NN CNC cho vùng miền Trung và Tây nguyên, giúp nông dân và các doanh nghiệp đến học hỏi để ứng dụng NN CNC vào sản xuất kinh doanh.

Doanh nghiệp Nhật Bản cũng đang liên kết với Đại học Cần Thơ xây dựng một khu chuyên trồng các loại cây theo nhu cầu nhập khẩu của Nhật. Thí dụ như cà chua mini Cobi, vì Nhật không có điều kiện trồng vào mùa đông; họ sẽ qua khu này để canh tác cà chua Cobi rồi xuất thẳng về Nhật. Đây cũng là mô hình trình diễn cho các doanh nghiệp và nông dân Việt Nam học hỏi và chúng ta sẽ tiếp nhận việc chuyển giao kỹ thuật mới trong NN CNC. Tới đây, chúng tôi cũng sẽ nối kết với Đài Loan và Thái Lan trong việc này.

Quan trọng hơn là qua đó chúng ta xây dựng được thị trường cho sản phẩm NN CNC do chúng ta sản xuất và xuất khẩu thẳng qua các nước.

* Xin GS cho biết thêm việc liên kết với các tỉnh ĐBSCL?

- Các tỉnh đang đồng hành với trường Đại học Cần Thơ trong xây dựng các mô hình ứng dụng NN CNC. Thành phố Cần Thơ giao cho trường 10ha đất trong khu NN CNC, 100ha ở huyện Cờ Đỏ để Trường xây dựng mô hình gắn với trình diễn và gắn với du lịch sinh thái, phát triển những sản phẩm đặc sản của ĐBSCL, đặc biệt là Cần Thơ.

Sinh viên Đại học Cần Thơ vừa tốt nghiệp - nguồn nhân lực mới bổ sung cho ĐBSCL. Ảnh: HUỲNH KIM

Hiện Đại học Cần Thơ đã ký kết hợp tác toàn diện với 5 tỉnh, thành và 20 huyện ở ĐBSCL. Đó là thành phố Cần Thơ và 4 tỉnh Đồng Tháp, Hậu Giang, Vĩnh Long, An Giang; sắp tới, có thêm Bạc Liêu và Sóc Trăng. Với huyện, vừa rồi chúng tôi đã ký với huyện Cù Lao Dung của Sóc Trăng. Nơi đây cây mía đang chuẩn bị phá sản, chỉ còn khoảng 4.000ha so với hơn 9.000ha trước đây, vì không bán được. Trường đang kết nối với các doanh nghiệp xuất khẩu để khai thác đất đai ở đây trồng cây khác thay cho mía. Thí dụ có doanh nghiệp muốn trồng mỗi năm khoảng 50.000 tấn ớt, thì phải bố trí sản xuất thế nào cho phù hợp để kết nối với địa phương xây dựng hợp tác xã để giải quyết theo nhu cầu của doanh nghiệp. Hay với huyện Hồng Dân của Bạc Liêu; ở đây hiệu quả từ kỹ thuật NN CNC đã giúp thay đổi, như mô hình trồng lúa Một Bụi Đỏ, nuôi cá chình… đã cho thu nhập trên 100 triệu đồng/ha/năm.

Tôi nghĩ mỗi vùng ở ĐBSCL sẵn có sản phẩm đặc thù mà thế giới không có. Chúng ta cần áp dụng kỹ thuật NN CNC để sản phẩm có giá cao, có lợi cho nông dân.

* Đã có bài học nào từ thực tiễn cần nhấn mạnh, thưa GS?

- Cần có diện tích đất đủ lớn để các doanh nghiệp cùng với nhà trường triển khai được các mô hình hợp tác xã kiểu mới để nông dân có cổ phần trong đó ngoài việc họ cho thuê đất. Như ở Cù Lao Dung, sắp có Trung tâm thủy sản hơn 10ha làm mô hình trình diễn sản xuất giống gắn với du lịch sinh thái.

Chúng ta đang cố gắng chuyển đổi một phần diện tích lúa không hiệu quả qua những mô hình canh tác đa dạng hơn và cây lúa không thể làm 3 vụ như trước. Sẽ xen canh giữa lúa- tôm, lúa- cá, lúa- hoa màu, rau quả có hiệu quả.

Với NN CNC mà vẫn làm nông theo kiểu riêng lẻ thì khó phát triển. Nhật Bản là nơi làm rất tốt mô hình NN CNC trong hợp tác xã. Dù diện tích đất từng cá nhân của nông dân Nhật cũng thấp nhưng họ biết liên kết nhau để sản xuất ra sản phẩm đồng loạt, để được đầu tư kỹ thuật, công nghệ, nguồn lực con người gắn với phân phối sản phẩm. Đài Loan cũng đã rất thành công và hiệu quả trong việc này. Thái Lan cũng đang xây dựng các mô hình như vậy.

NN CNC không chỉ là kỹ thuật mà quan trọng là tạo ra sản phẩm an toàn và sạch với chất lượng cao. Vậy thì sản phẩm đó không được sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học độc hại. Tiếp đó là đầu tư cho kỹ thuật công nghệ để sản phẩm có chất lượng tốt, dinh dưỡng cao và có bao bì mẫu mã đẹp để đáp ứng các thị trường xuất khẩu khó tính.

Còn chọn công nghệ nào thì tùy thuộc thị trường nhập khẩu. NN CNC hiện nay phổ biến nhất là của Israel và Nhật Bản nhờ việc đầu tư nhà lưới và kỹ thuật canh tác phù hợp. Hiện nhiều doanh nghiệp trong nước cũng đã đáp ứng được kỹ thuật này.

* Vậy GS có đề xuất gì để việc liên kết thực sự hiệu quả?

- Tôi đã dự 4 hội nghị xúc tiến đầu tư của 4 tỉnh, thấy rằng tỷ lệ đầu tư cho NN CNC đang chiếm khá cao, hơn 20-30% so với trước đây vài năm là 1-2%. Hiện nhiều doanh nghiệp đang muốn khai thác đất đai phì nhiêu của ĐBSCL để làm ra sản phẩm xuất khẩu có giá từ NN CNC. Vậy thì trước hết, trách nhiệm của chính quyền trong việc quy hoạch sản xuất là rất quan trọng. Các tỉnh phải chuẩn bị kỹ từ nguồn nhân lực, chính sách quản lý, hỗ trợ để đáp ứng kịp nhu cầu của doanh nghiệp.

Mô hình trồng rau trong nhà kính ở quận Bình Thủy phát huy hiệu quả, cho năng suất cao. Ảnh: H.V

Chúng ta đã có bộ máy hỗ trợ làm NN CNC; như mỗi tỉnh có sở nông nghiệp, hội nông dân, trung tâm khuyến nông, khuyến ngư và các hiệp hội doanh nghiệp. Chỉ cần bộ máy này nối kết với nhau đồng bộ, trách nhiệm  để phục vụ cho nhu cầu phát triển NN CNC.

Chính phủ đã có những cơ chế về hợp tác, xuất nhập khẩu, bao tiêu sản phẩm… Chúng ta phải biết liên kết làm nghiêm những quy định đó để giải quyết đầu ra cho sản phẩm và làm tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích cho nông dân bằng kỹ thuật công nghệ cao và bằng việc bao tiêu sản phẩm của doanh nghiệp.

* Xin cảm ơn GS!

HUỲNH KIM (thực hiện)

 

Chia sẻ bài viết