Được về đền Hùng, ít nhất một lần trong đời, là ước mơ của bất cứ người dân Việt nào. Đây là nơi thờ phượng HùngVương Quốc Tổ, Âu Cơ Quốc Mẫu, 18 đời vua Hùng..., là nơi chốn thiêng liêng nhất của đất nước ta.
Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Con đường từ lộ chính vào chân núi dẫn lên đền rợp mát bóng cổ thụ che phủ. Đền là một tập hợp bốn đền rải rác từ thấp lên cao trên núi Nghĩa Lĩnh. Nghĩa Lĩnh còn được gọi với các tên: núi Hy Cương, núi Hùng, người địa phương gọi là núi Cả.
 |
Đường lên đền Hùng. |
Từ chân núi lên Đền Hạ là một lối đi lót đá xanh chẻ, rộng rãi, thoai thoải, dài 300 bậc. Đền Hạ được xây dựng trong khoảng thế kỷ thứ 17 18, theo kiểu hình chữ “nhị”, mái lợp ngói mũi, tường gạch kiên cố, với Tiền bái và Hậu cung. Theo truyền thuyết, khi Quốc mẫu Âu Cơ hoài thai và đã hạ sinh một bọc trăm trứng. Một trăm trứng Rồng ấy đã nở thành trăm người con - cội nguồn dân tộc Việt. Chính từ truyền thuyết nầy mà từ ngàn năm trước, chúng ta đã sử dụng từ “đồng bào” - độc nhất vô nhị trên thế giới - một cách thân thương.
Trước cửa đền Hạ, phía trên, có đắp bốn đại tự: “Cao sơn cảnh hành”, có nghĩa: núi cao đức lớn. Hai bên cửa chính có hai cặp đối, trong đó có một cặp ghi: “Thác thủy khai cơ tứ cố sơn hà quy bản tịch; Đăng cao vọng viễn quần phong la liệt tự nhi tôn” (dịch nghĩa: Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông về một mối; Lên cao nhìn khắp, chập chùng đồi núi tụ cháu con). Hai câu đối nầy nhằm ca tụng công đức cao dầy của Quốc Tổ Hùng Vương, Quốc Mẫu Âu Cơ cùng 18 đời vua Hùng kế tiếp...
Cạnh Đền Hạ là chùa Thiên Quang, tên chữ là Viễn Sơn Cổ Tự, về sau đổi lại là Thiên Quang Thiền Tự. Chùa kiến trúc theo hình chữ “công”, với ba tòa: Tiền đường, Tam bảo và Thượng điện, được xây dựng vào đời nhà Trần. Để bảo quản, chùa được tu bổ vào thế kỷ 15. Đặc biệt, thời nhà Nguyễn chùa được trùng tu với mái ngói tạo hình đầu đao cong vút, đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh chùa có hành lang rộng rãi, thoáng mát. Điều đáng quan tâm là trước cửa chùa có cây vạn tuế chừng 800 tuổi. Chính bên gốc cây cổ thụ nầy, ngày 19-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ngồi làm việc, trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội.
 |
Giếng Ngọc bên trong Đền Giếng. |
Từ Đền Hạ lên Đền Trung có 200 bậc cấp bằng đá xanh chẻ. Đền Hạ còn có tên Hùng Vương Tổ Miếu, nơi thờ 18 vị vua Hùng. Đền được khởi xây vào thời Lý Trần. Thế kỷ 15, giặc Minh xâm chiếm nước ta, chúng đã phá đền. Sau đó, nhân dân ta xây lại đền với kiểu hình chữ “nhất” gồm ba gian theo truyền thống, mái lợp ngói mũi, kèo quá giang cột ẩn vào tường. Theo truyền thuyết, ngày xưa, các vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng đã đến đây vừa ngắm cảnh vừa họp bàn việc nước. Đặc biệt, cũng tại nơi này vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu - người con hiếu thảo sáng tạo ra bánh chưng và bánh dầy lưu lại hậu thế.
Nơi thờ vua Hùng là Đền Thượng, tên chữ là Kính Thiên Lĩnh Điện, nghĩa là điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh. Tương truyền, đây là nơi các vua Hùng thường tiến hành nghi lễ cúng tế thần Lúa, cầu mùa màng bội thu, nhân dân no ấm... Nơi đây có một mảnh vỏ trấu khổng lồ, gắn với truyền thuyết hạt lúa thần dân gian thường truyền tụng.
Đền Thượng do nhân dân lập vào thế kỷ 15 nhằm tưởng nhớ công lao cao dầy của vua Hùng. Đền được đại trùng tu vào thời nhà Nguyễn. Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ “Vương”, với 4 cấp: Nhà chuông trống, Đại bái, Tiền tế và Hậu cung. Ngày 18-9-1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên thăm Đền Hùng, nghỉ trưa ở cửa ngách đông nam Đền Thượng. Trước khi ra về, Người đã căn dặn các cán bộ phải trồng thêm cây xanh và xây dựng Đền Hùng thành công viên lịch sử nghiêm trang, cho thấy tầm mắt viễn mô của Người về cảnh quan môi trường.
Viếng Đền Hùng không ai không ghé thăm Đền Giếng, tên chữ Ngọc Tỉnh. Bên trong Đền Giếng, trước bệ thờ có một chiếc giếng to sâu. Bên thành giếng nầy, ngày xưa, hai cô công chúa con gái vua Hùng thứ 18 là Tiên Dung (Tiên Dung và Chử Đồng Tử là một trong “Tứ bất tử” của Việt Nam) và Ngọc Hoa thường đứng soi mặt chải tóc. Đáng nói là hai cô công chúa này đã quan tâm đến cuộc sống người dân Lạc Việt bằng cách dầy công dạy dân trồng lúa và trị thủy. Để tưởng nhớ công đức của hai vị công chúa, người dân đã lập đền thờ vào thế kỷ 18, theo hình chữ “công”.
Đến viếng đền Hùng, chìm mình trong không gian thấm đẫm miền cổ tích, chợt hoài cảm về Bác Hồ. Tại chốn núi non cao vời đất Tổ, ngày 19-9-1954, khi về thăm Đền Hùng Người đã viếng Đền Giếng. Tại đây, Người đã nói với các đồng chí cán bộ Đại đoàn quân Tiên phong: “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”. Câu nói tâm huyết bất hủ lưu truyền muôn sau sử sách nầy của Người đã được khắc trên bia cẩm thạch trắng, đặt trang trọng trong một mái che bằng ngói xây dựng theo kiểu kiến trúc đình chùa truyền thống Việt Nam.
Khu di tích lịch sử Đền Hùng để lại trong lòng bất cứ người dân Việt nào niềm cảm khái lâng lâng về ơn đức của các vua Hùng, một hoài niệm xa xôi đầy tự hào. Thuở đó, đây là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông, giống như hai dãy hào thiên nhiên, hai con rồng khổng lồ bao bọc cố đô của các vua Hùng.
Bài, ảnh: CÚC TẦN