Xu hướng chuyển đổi số trong giai đoạn hiện nay đang tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động lao động, sản xuất của con người. Để thích ứng với xu hướng này, con người vừa là chủ thể vừa là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp cần phải hoàn thiện, nâng cao kỹ năng làm việc của mình trong đó kỹ năng số có tác động, chi phối mạnh mẽ đến tất cả mối quan hệ của con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định quan điểm phát triển đất nước là “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh” (1). Do vậy, đội ngũ cán bộ với tư cách là lực lượng quan trọng, không thể thiếu trong triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn cần được trang bị những kiến thức, kỹ năng số đủ để làm việc tốt trong điều kiện chuyển đổi số quốc gia trong bối cảnh mới.
Một số nhận thức về kỹ năng số
Có thể cho rằng kỹ năng số đầu tiên mà con người cần phải có là khả năng sử dụng các thiết bị kỹ thuật số và các ứng dụng trực tuyến để học tập, lao động và làm việc. Tuy nhiên, điều này cần phải thực hiện trên nền tảng các kiến thức, khả năng về đọc, viết, tính toán để nhận thức đúng và đầy đủ các thông tin cần thiết cho ciệc giải quyết vấn đề.
Một vấn đề nữa cho thấy, nếu chỉ có công nghệ thôi thì chưa thể có chuyển đổi số, chuyển đổi số chỉ diễn ra khi có sự chuyển đổi về lực lượng lao động. Việc chuyển đổi số cần hướng đến giải quyết các vấn đề của thực tiễn cuộc sống để mang lại những kết quả thiết thực. Có thể có những vấn đề đã được giải quyết trong quá khứ nhưng trong điều kiện chuyển đổi số vấn đề đó sẽ được giải quyết theo một phương thức khác với mức độ nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn và có thể lưu trữ thông tin một cách khoa học hơn, tra cứu dễ dàng hơn. Đối với những vấn đề, nhu cầu phát sinh kỹ năng số có thể giúp con người tìm kiếm các phương thức giải quyết vấn đề nhanh chóng và đỡ vất cả hơn do dựa trên các nền tảng công nghệ thông minh nhất là công nghệ trí tuệ nhân tạo AI.
Lợi ích của chuyển đổi số trong khu vực công
Đối với lực lượng nhân sự làm việc trong bộ máy nhà nước các cấp, chuyển đổi số sẽ giúp cho việc hoạt động của cơ quan nhà nước trở nên đổi mới, linh hoạt hơn và khẳng định rõ về định hướng phát triển hơn. Việc đẩy mạnh chuyển đổi số khu vực công đem lại nhiều lợi ích và tiện ích hơn cho cả nước cũng như người dân.
Thứ nhất, việc cung cấp các dịch vụ công thông qua môi trường kỹ thuật số sẽ giúp tiết kiệm tiền, có thể ban đầu Nhà nước và người dân sẽ bỏ ra những khoản đầu tư lớn để trang bị các phương tiện, công cụ kỹ thuật số, xây dựng cơ sở dữ liệu, …nhưng sẽ được đổi lại bằng việc thúc đẩy các giao dịch trong xã hội nhanh hơn, tiết kiệm thời gian cũng như hạn chế sử dụng giấy tờ, văn phòng phẩm,…
Thứ hai, chuyển đối số giúp Nhà nước tối đa hóa việc sử dụng nhân sự của mình, cán bộ, công chức sẽ phải tăng tốc trong quá trình làm việc để tạo ra những sản phẩm công vụ nhiều hơn, nhanh hơn.
Thứ ba, việc cung cấp các dịch vụ công nghệ số cũng làm giảm bớt việc tiếp xúc trực tiếp với người dân sẽ làm cho việc giải quyết hồ sơ trở nên minh bạch hơn, dễ dàng truy vết cũng sẽ giảm được được tình trạng những nhiễu của một bộ phận cán bộ.
Những rào cản cần giải quyết trong hoàn thiện kỹ năng số cho lực lượng nhân sự khu vực công nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số
Thứ nhất, cơ sở dữ liệu cần đồng bộ, đáng tin cậy và phải được cập nhật thường xuyên là điều kiện tiên quyết tạo nền tảng cho các hoạt động giải quyết công vụ của lực lượng nhân sự trong khu vực công. Điều này đòi hỏi lực lượng này phải có kỹ thuật số phù hợp, có thể sử dụng thành thạo các thiết bị kỹ thuật số và ứng dụng trực tuyến, biết quản lú và khai thác cơ sở dữ liệu liên quan để thao tác làm việc đúng với chức năng, nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, việc xây dựng cơ sở dữ liệu với các tiêu chuẩn về sự thống nhất, đồng bộ, liên thông, đáng tin cậ và được cập nhật thường xuyên để đảm bảo dữ liệu phải “sống” đòi hỏi phải chi các khoản đầu tư rất lớn và lâu dài. Do vậy, nếu không có sự tính toán và ưu tiên hợp lý có thể làm chậm trễ quá trình chuyển đổi số và chuyển đổi lực lượng nhân sự có kỹ năng làm việc số, điều này cũng có nghĩa là cơ hội đột phá trong phát triển, năng lực cạnh tranh quốc gia không được nắm bắt kịp thời.
Thứ ba, việc chuyển đổi số gắn liền với việc chuyển đổi lực lượng nhân sự có kỹ năng kỹ thuật số cần có sự ủng hộ, thúc đẩy, tạo động lực mạnh mẽ của người đứng đầu các cấp chính quyền lấy lợi ích của người dân làm trung tâm để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số.
Thứ tư, cần tạo dựng và củng cố được niềm tin trong người dân về những tiện ích, lợi ích mà họ được hưởng từ việc chuyển đổi số của chính quyền để mỗi người dân có thể đồng hành và tương tác tốt với chính quyền trong giải quyết các công việc chung. Những yêu cầu của người dân về chất lượng, tốc độ, hiệu quả của việc cung ứng các dịch vụ công trực tuyến cũng là áp lực, nguồn cảm hứng để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số nhanh hơn và đặt nhân sự trong khu vực công trước yêu cầu phải nâng cao kỹ năng làm việc trong môi trường số của mình.
Thứ năm, việc tuyển dụng các nhân sự có kỹ năng số tốt để làm việc trong khu vực công sẽ gặp khó khăn vì cùng chất lượng, cùng tính chất công việc nhưng nhân sự ở khu vực công thường được trả lương thấp hơn khu vực tư nên sẽ có sự cạnh tranh gay gắt. Do đó, cần có cơ chế chính sách phù hợp, tương xứng để thu hút, tuyển dụng hoặc chia sẻ việc khai thác năng lượng của những nhân sự này cho các chương trình, dự án chuyển đổi số của chính quyền.
Thứ sáu, chuyển đổi số gắn liền với chiến lược đảm bảo an ninh, an toàn thông tin trực tuyến và cập nhật các công nghệ mới trong quá trình chuyển đổi số cũng đặt ra yêu cầu phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng số với nhân sự trong khu vực công. Do vậy, cần xây dựng chương trình bồi dưỡng kỹ năng số để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số ở mỗi cấp chính quyền và mỗi ngành, lĩnh vực quản lý Nhà nước.
Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ trong thời kỳ chuyển đổi số
Trước hết, cán bộ cần có hiểu biết và nghiệp vụ nhất định về sử dụng các thiết bị công nghệ, phần mềm quản lý trong hoạt động chuyển đổi số
Để ứng dụng hiệu quả khoa học và công nghệ ở bất kỳ lĩnh vực nào, người lao động cần nắm vững về chuyên môn, nghiệp vụ. Do đó, trong thời đại công nghệ số, đặc biệt là đội ngũ cán bộ khu vực công cần đạt chuẩn về trình độ công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu công việc. Vì vậy, để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đội ngũ cán bộ về công nghệ thông tin, chuyển đổi số cần được tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng bài bản, nghiêm túc và thường xuyên.
Thứ hai là, làm chủ được công nghệ và thành thạo kỹ năng trong môi trường số
Để vận hành chỉnh phủ số, cán bộ trong bộ máy Nhà nước không chỉ thành thạo các thao tác về công nghệ để tương tác trong công việc mà còn phải khai thác hiệu quả tối đa khoa học và công nghệ để ứng dụng giải quyết các vấn đề đặt ra. Cán bộ phải có các kỹ năng như sử dụng công nghệ thông tin; đảm bảo an toàn thông tin, tổng hợp và phân tích dữ liệu, khai thác và sử dụng các ứng dụng vào công tác. Ngoài ra, cán bộ cần rèn luyện kỹ năng, cập nhật kiến thức, kỹ thuật mới để không bị tụt hậu trước làn sóng thay đổi nhanh chóng của công nghệ.
Thứ ba là, yêu cầu về thưc thi đạo đức công vụ
Trong thời kỳ chuyển đổi số, đội ngũ cán bộ không những phải giỏi về kỹ năng chuyên môn, kỹ năng số mà còn cần đảm bảo về nhân cách, đạo đức để ứng dụng khoa học một cách lành mạnh, không lạm dụng công nghệ để trục lợi cho các nhân, ứng xử với người dân đúng chuẩn mực, có lối sống trong sạch và lành mạnh.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thời kỳ chuyển đổi số trong bối cảnh mới
Xây dựng kế hoạch hợp lý về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
Các cơ quan, đơn vị cần có kế hoạch cụ thể trong công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là những kỹ năng cần thiết về công nghệ thông tin có lộ trình, đúng mục tiêu, đúng đối tượng, không tạo ra tình trạng thiếu hoặc thừa nhân lực gây lãng phí xã hội. Kế hoạch tốt giúp đào tạo gắn với nhu cầu thực tế và yêu cầu của vị trí việc làm; lựa chọn đúng đối tượng cần đào tạo, đúng người, đúng nội dung cần thiết. Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cần gắn với nhu cầu thực tế của từng cơ quan, tổ chức và yêu cầu chung của nền hành chính.
Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ chuyển đỏi số cho đội ngũ cán bộ
Các cơ quan, tổ chức, đơn vị cần cử cán bộ nhất là cán bộ ở cơ sở tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tấp huấn kiến thức về chuyển đổi số và công nghệ thông tin để nâng cao năng lực số. Triển khai các chương trình đào tạo, cập nhật kiến thức chuyển đổi số, áp dụng công nghệ số cho đội ngũ cán bộ. Bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cơ quan.
Bên cạnh đó, cần phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và thu hút nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao sẵn sàng tham gia vào quá trình chuyển đổi số. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để trở thành lực lượng nồng cốt và tinh nhuệ về chuyển đổi số.
Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng được nhu cầu xã hội với môi trường chuyển đổi số trong bối cảnh mới
Cần đổi mới để các học phần giảng dạy được biên soạn có thể áp dụng cả hình thức giảng dạy trực tiếp và trực tuyến. Bổ sung vào chương trình các học phần cơ bản về công nghệ giúp người học có những kiến thức để ứng dụng vào môi trường chuyển đổi số. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần chú trọng xây dựng căn cứ vào yêu cầu của vị trí việc làm, trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết của vị trí việc làm, giúp cán bộ sau khi tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng có thể ứng dụng, triển khai tốt công việc đang đảm nhận, nâng cao năng suất lao động.
Ngoài các chương trình đào tạo tập trung, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần phát triển các hình thức đào tạo phù hợp, để tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội tiếp cận kiến thức, kỹ năng nâng cao năng lực làm việc như: đào tạo trực tuyến với ưu điểm tiết kiệm chi phí đi lại, chi phí cơ sở vật chất cho lớp học, người học có thể chủ động trong việc học tập, nghiên cứu phù hợp với thời đại số; … Phương pháp đào tạo hướng vào nâng cao năng lực của người học, đặc biệt là năng lực giải quyết vấn đề trong môi trường số, xã hội số và sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ; khuyến khích người học có tư duy sáng tạo, biết cách khai thác dữ liệu, tìm ra giải pháp tối ưu phục vụ cho công việc chuyên môn.
Nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo, phát triển đội ngũ giảng viên trong các cơ sở đào tạo; triển khai các khóa bồi dưỡng, trang bị kỹ năng số cho đội ngũ giảng viên; sử dụng kết hợp giảng viên thỉnh giảng, người có kinh nghiệm và từng trải qua các vị trí quản lí trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, người có kinh nghiệm thực tế trong ngành vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Đồng thời, cần có chính sách thu hút đội ngũ giảng viên trình độ cao, có kinh nghiệm trong chuyển đổi số tham gia nghiên cứu xây dựng chương trình và truyền đạt kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công chức.
Bên cạnh đó, cần xây dựng kho dữ liệu mở với hệ thống tài liệu phong phú về lĩnh vực quản lý nhà nước, hành chính, chính sách công, …phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Người học có thể truy cập để tham khảo các nguồn tài liệu một cách hệ thống và thuận lợi. Công nghệ hỗ trợ tốt cho học viên để khai thác dữ liệu. Kho học liệu mở được tích hợp dữ liệu liên ngành, liên địa phương, liên thời gian và có nguồn gốc uy tín sẽ cung cấp cho người học những kiến thức đa dạng, kinh nghiệm thực tiễn hay từ các địa phương khác nhau, qua các thời kỳ khác nhau để giúp họ vận dụng tốt cho công việc.
Tăng cường hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cần thực hiện qua các chương trình liên kết giữa các cơ sở đào tạo trong nước và quốc tế uy tín. Tăng cường các lớp đào tạo, bồi dưỡng về dữ liệu, kỹ năng số, ngoại ngữ cho cán bộ các cấp từ Trung ương đến địa phương. Kỹ năng số là rất cần thiết và quan trọng để cán bộ sử dụng được các công nghệ số mới được áp dụng, thích ứng với sự thay đổi của môi trường số, quan trọng nhất là biết khai thác dữ liệu để ứng dụng vào trong công việc, ban hành chính sách. Ngoài ra, bổ sung đào tạo kỹ năng thích ứng và quản trị sự thay đổi: kinh tế số, xã hội số sẽ xuất hiện những cách thức giao dịch mới, yêu cầu các cơ quan Nhà nước phải thay đổi phù hợp.
Tóm lại, đội ngũ cán bộ có vị trí, vai trò quan trọng trong nền hành chính nói riêng, sự phát triển của đất nước nói chung mà đặc biệt là đáp ứng yêu cầu chuyển số cho Đảng trong bối cảnh mới. Chất lượng đội ngũ cán bộ ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Đặc biệt, để xây dựng chính phủ điện tử, hướng đến chính phủ số, xã hội số, cần phải có nguồn nhân lực số chất lượng cao. Vì vậy, cần chú trọng xây dựng nguồn nhân lực khu vực công nói chung và đội ngũ cán bộ nói riêng có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu và nhệm vụ. Để hoàn thành mục tiêu đó, mỗi cơ quan, đơn vị cần xây dựng chiến lược, kế hoạch cụ thể và thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ chuyển đổi số hiện nay với bối cảnh mới.
Phan Hoàng Thăm (Trường PTDTNT Him Lam)
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr.214.
Tài liệu tham khảo
- Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Thủ tướng chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phe duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
- Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 1.