Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của Đảng và Nhà nước ta. Đây là công tác có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước, sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cán bộ, công chức, viên chức là những người đứng đầu, đi đầu trong việc thực thi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, quản lý và phục vụ nhân dân. Họ cũng chính là những người tiên phong trong việc đổi mới, sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh traanh của quốc gia. Do đó, việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức không chỉ là nhu cầu của từng cá nhân, mà còn là trách nhiệm của tổ chức, cơ quan, đơn vị và xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện trong tình hình mới hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức và cơ hội mới. Đặc biệt là trong việc bảo vệ nền tảng tương của Đảng cũng như nước ta đang trong kỷ nguyên vươn mình với bối cảnh mới trước những âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch thì có một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có những tư tưởng lệch lạc, suy thoái về đạo đức, tác phong, nền nếp, kỷ cương và lề lối làm việc. Để vượt qua những khó khăn này và khai thác toàn diện, tối đa tiềm năng, Việt Nam cần phải có một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm cao.
Chính vì vậy, việc phát huy vai trò công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức có chất lượng là một yêu cầu cấp thiết trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới.
Tầm quan trọng và ý nghĩa của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức
Thứ nhất, vai trò quyết định của cán bộ, công chức và viên chức đối với hiệu quả hoạt động của khu vực công đòi hỏi phải nâng cao chất lượng của đội ngũ này thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng
Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức đối với hiệu quả và chất lượng hoạt động của khu vực công. Có thể cho rằng cán bộ, công chức và viên chức là yêu tố quyết định chất lượng của các chủ trương, chính sách, quyết định hiệu quả thực thi các chủ trương, chính sách và cũng là yếu tố quyết định chất lượng dịch vụ công. Nói cụ thể hơn, cán bộ, công chức và viên chức là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cũng như hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Chính vì vậy, quản lý nguồn nhân lực khu vực công là yếu tố quyết định đến việc xây dựng, hình thành đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới. Với tư cách là một trong các nội dung của quản lý nguồn nhân lực khu vực công, đào tạo, bồi dưỡng có vai trò trực tiếp trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức. Bởi lẽ, công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng năng lực lãnh đạo, tri thức, phương pháp tư duy, phẩm chất đạo đức, thái độ, năng lực phân tích và giải quyết vấn đề của cán bộ, công chức và viên chức, từ đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của khu vực công.
Nhấn mạnh vai trò của cán bộ và công tác đào tạo cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” (1). Với nhận thức cho rằng, “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bài của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đã chỉ rõ một số nhiệm vụ liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, như: “Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học tập ngoại ngữ”; “Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh và đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau”; “Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng”(2). Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng nhấn mạnh: “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế” (3).
Thứ hai, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và kinh tế tri thức đặt ra nhiều yêu cầu đối với cán bộ, công chức, viên chức, từ đó đòi hỏi phải tăng cường và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức.
Cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như sự phát triển của kinh tế tri thức đặt ra yêu cầu phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức. Sở dĩ như vậy là vì cách mạng khoa học và công nghệ, sự phát triển kinh tế tri thức, xã hội số đòi hỏi tốc độ đổi mới tri thức của con người và xã hội ngày càng nhanh; phương thức học tập và làm việc truyền thống từng bước bị thay thế bởi nhiều phương pháp mới, hiện đại và hiệu quả. Việc nắm vững tri thức mới, phương thức làm việc mới và hiệu quả trở thành yếu tố chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh này, thông qua đào tạo, bồi dưỡng để cán bộ, công chức và viên chức tiếp nhận tri thức mới, phương thức làm việc mới và có hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức. Bên cạnh đó, sự thay đổi nhanh chóng của xã hội cũng đặt ra cho những người lao động trong tất cả các lĩnh vực cũng như đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức trong khu vực công rất nhiều thách thức.
Thứ ba, xã hội càng phát triển, các vấn đề xã hội càng trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi cần phải tăng cường đào đạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức để nâng cao năng lực giải quyết các vấn đề phức tạp của họ.
So với thời kỳ trước đây, hoạt động của khu vực công đối mặt với nhiều vấn đề xã hội phức tạp hơn, như tội phạm, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, nguy cơ xung đột, … Những vấn đề này, thường do nhiều yếu tố, nguyên nhân và tính chất của các vấn đề này thường khó nhận diện. Vì vậy, độ khó trong giải quyết các vấn đề này không ngừng tăng lên. Khi khu vực công và đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức giải quyết các vấn đề này, cần phải có tu duy hệ thống, tư duy chiến lược, biết xác định được mức độ ưu tiên trong giải quyết từng vấn đề. Điều này đòi hỏi cần cán bộ, công chức và viên chức phải tăng cường năng lực phán đoán chính xác sự vật, cũng như năng lực giải quyết vấn đề; đồng thời còn phải biết sử dụng phương pháp và phương thức tiên tiến và hiệu quả để giải quyết vấn đề. Để có được tư duy và năng lực này, đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức cần phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng một cách thường xuyên.
Thứ tư, đổi mới hệ thống chính trị và khu vực công theo phương châm “lấy nhân dân làm trung tâm” đòi hỏi phải nâng cao chất lượng cán bộ, công chức và viên chức thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phán đấu”(4). Việc đổi mới hệ thống chính trị và khu vực công ở nước ta nhằm thực hiện tốt phương châm “nhân dân là trung tâm” đòi hỏi cần phải tăng cường và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức và viên chức để góp phần xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức đáp ứng được cả yêu cầu về “tài” và “đức”.
Thực trạng công tác đào tạo cán bộ, công chức, viên chức và sự cần thiết phải đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới
Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam, nhất là sau hơn 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác cán bộ, công chức và viên chức có nhiều đổi mới, được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, đồng bộ, có chuyển biến rõ rệt, đạt được một số kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng cũng như góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức đã đạt được những kết quả quan trọng, ngày càng đi vào nền nếp, có hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức được củng cố, phát triển; số lượng cán bộ, công chức và viên chức được đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng tăng, cơ bản gắn với quy hoạch cán bộ, công chức và viên chức, yêu cầu chức danh, vị trí việc làm; nội dung, chương trình, hình thức đào tạo, bồi dưỡng từng bước đổi mới; chất lượng đội ngũ giảng viên được nâng lên cả về trình độ văn hóa, chuyên môn, lý luận chính trị và kinh nghiệm thực tiễn; điều kiện vật chất, kỹ thuật của các cơ sở đào tạo được cải thiện. Hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương có nhiều chuyển biến tích cực góp phần to lớn trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống kinh tế, chính trị thế giới đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức phải đáp ứng được những yêu cầu của bối cảnh mới. Đặc biệt, với sức mạnh của công nghệ mới, các phương tiện, thiết bị hiện đại và thông minh xuất hiện trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nhà nước có thêm công cụ hữu hiệu để gia tăng kiểm soát xã hội, từ đây, vai trò của Nhà nước cũng thay đổi một cách căn bản. Dự báo đến năm 2030, các vấn đề “hội nhập số” và “quản trị số” có thể sẽ bao trùm lên các quốc gia. Các vấn đề về quản trị quốc gia và quản trị toàn cầu còn được thể hiện ở góc độ là thế giới số, chứ không chỉ là kinh tế số, chính phủ số và xã hội số. Điều này làm thay đổi căn bản tính chất của tổ chức bộ máy nhà nước, không thể hội nhập quốc tế thành công nếu không có đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức có đủ năng lực tương ứng, vì “cán bộ là cái gốc của mọi việc” (5). Do tính phức tạp và yêu cầu rất cao trong quá trình tiếp cận với trình độ quốc tế, nên người cán bộ, công chức và viên chức chỉ thành công khi hội tụ đủ trình độ, phẩm chất, năng lực nhất định, thậm chí phải là năng lực vượt trội khi thực hiện nhiệm vụ.
Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện, sâu rộng, Nghị quyết số 26-NQ/TW nhấn mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Nghị quyết đã đưa ra mục tiêu cụ thể: Có từ 40 – 50% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; có từ 50 – 60% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; có từ 25 – 35% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; có từ 20 – 30% cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; đối với đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia: Hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học ở những lĩnh vực trọng điểm, có thế mạnh, đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Số cán bộ khoa học đạt ít nhất 11 người trên 1 vạn dân; đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước, có từ 70 – 80% có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Đại hội Đại biểu lần thứ XI của Đảng ta xác định: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. “Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi nhiệm những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân. Tổng kết việc thực hiện “nhất thể hóa” một số chức vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước để có chủ trương phù hợp. Thực hiện bầu cử, bổ nhiệm lại chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định” (6).
Đại hội XIII khẳng định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” (7). Đây là điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII khi Đảng rất coi trọng công tác cán bộ và khẳng định đây là một mặt, một nội dung rất quan trọng và cấp thiết của công tác xây dựng Đảng. Đảng khẳng định: “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại; đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược đi vào nền nếp, nhất quán từ trung ương đến cơ sở, phù hợp với từng đối tượng, chú trọng chất lượng, hiểu quả, siết chặt kỷ luật, kỷ cương” (8).
Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Một thực trạng đáng chú ý là tâm lý "học để có chứng chỉ" còn tồn tại khá phổ biến, nhất là trong các lớp bồi dưỡng tiêu chuẩn ngạch, chức danh. Điều này khiến động lực học tập giảm sút, ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra. Trong khi đó, các chương trình đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, công nghệ thông tin lại chưa được quan tâm đúng mức.
Trong bối cảnh hiện nay, khi nền hành chính Nhà nước chuyển mạnh sang phục vụ người dân và doanh nghiệp, yêu cầu về năng lực, đạo đức công vụ, trách nhiệm giải trình và hiệu quả làm việc đối với cán bộ, công chức, viên chức ngày càng cao. Vì vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cần phải đổi mới mạnh mẽ về tư duy, nội dung, phương pháp và cách thức triển khai.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong bối cảnh mới
Một, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức
Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, của cán bộ, công chức, viên chức và đảng viên về mục tiêu, yêu cầu và tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức trong bối cảnh mới. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tích cực cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng chương trình, kế hoạch và để triển khai có hiệu quả và chất lượng. Chủ động rà soát, bổ sung, hoàn thiện khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức và viên chức phù hợp với các ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị; làm tốt việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hằng năm và cả nhiệm kỳ, gắn với các khâu của công tác cán bộ, công chức và viên chức, nhất là việc bố trí, sử dụng cán bộ, công chức và viên chức hợp lý, hiệu quả sau đào tạo, bồi dưỡng. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và trách nhiệm của các cơ quan tham mưu cấp ủy đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức tại các cơ sở đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở đào tạo đi đôi với tăng cường công tác kiểm tra và giám sát.
Hai, tiếp tục đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức
Làm tốt việc rà soát, cập nhật nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức; rà soát đánh giá chất lượng các chương trình hiện hành, bảo đảm tính khoa học, tính ứng dụng của các chương trình. Tăng cường biên soạn những chương trình bồi dưỡng ngắn hạn để cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng theo tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm. Xây dựng nội dung, chương trình, phương pháp, thời gian đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chọn lọc, thiết thực, phù hợp với từng loại chức danh cán bộ, công chức và viên chức; chú trọng hơn nữa về phương pháp luận, tính định hướng, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, kỹ năng công tác và phong cách lãnh đạo, quản lý. Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức và viên chức cần phù hợp với từng loại đối tượng, đảm bảo tính toàn diện, bao quát, đồng thời phải có tính chuyên sâu, bám sát với tình hình thực tế trong nước và quốc tế; phù hợp với yêu cầu cụ thể của từng ngành, lĩnh vực, địa phương; vừa bổ sung kiến thức, vừa giải đáp những vấn đề thực tiễn mới đặt ra trong bối cảnh mới. Chú trọng bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý, kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng tổng kết thực tiễn; bổ sung kiến thức về khả năng phân tích, dự báo tình hình; bổ sung các chuyên đề có tính thời sự, tăng cường khảo sát thực tế những mô hình mới, cách làm hay, hiệu quả ở các địa phương, đơn vị, gắn lý luận với thực tiễn.
Ba, nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học đối với cán bộ, công chức và viên chức
Triển khai thực hiện tốt Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức và viên chức. Rà soát thực trạng năng lực, trình độ và tổng hợp nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức từng cấp, từng ngành, từng địa phương để làm căn cứ xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ theo từng nhóm đối tượng, từng lĩnh vực công tác, từng vị trí việc làm một cách phù hợp. Đưa việc đào tạo, bồi dưỡng, học tập ngoại ngữ thành hoạt động thường xuyên ở từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị; tạo chuyển biến căn bản về trình độ ngoại ngữ của cán bộ, công chức và viên chức; gắn việc học ngoại ngữ đi đôi với thực hành, sử dụng ngoại ngữ thường xuyên, hiệu quả. Thực hiện kiểm tra, đánh giá năng lực trong đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán bộ, công chức và viên chức theo tiếp cận chuẩn quốc tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, huy động nguồn lực, phát triển các cơ sở đào tạo uy tín để tăng cường đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán bộ, công chức và viên chức. Tăng cường đào tạo tin học, bổ sung kiến thức về công nghệ thông tin cho cán bộ, công chức, viên chức và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành.
Bốn, kiện toàn hệ thống cơ sở đào tạo, đội ngũ giảng viên làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức
Kiện toàn hệ thống trường đào tạo, bồi dưỡng theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quy mô, hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Thu hút và tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo có đủ năng lực tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức. Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin, bảo đảm cơ sở đào tạo đủ điều kiện, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và viên chức. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xây dựng, thực hiện kế hoạch đào tạo, kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng. Tạo lập môi trường khoa học rộng mở để phát huy sức sáng tạo của giảng viên; tạo điều kiện để trao đổi, học hỏi và chia sẻ tri thức với các nhà khoa học trong nước cũng như quốc tế. Tăng cường đội ngũ giảng viên kiêm chức, thỉnh giảng là cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều kinh nghiệm từ các ban, bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia quản trị doanh nghiệp hàng đầu, giảng viên giỏi từ các trường đại học, viện nghiên cứu uy tín. Hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách cho đội ngũ giảng viên.
Năm, tăng cường thu hút đầu tư nguồn lực cho công tác đào tạo; đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại và điều kiện học tập tốt nhất
Đào tạo cán bộ, công chức, viên chức cần được coi là khoản đầu tư chiến lược, không thể xem nhẹ. Nhà nước cần ưu tiên bố trí ngân sách hàng năm cho hoạt động này, trong đó có cả chi thường xuyên và chi đầu tư cho cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, công nghệ đào tạo. Bên cạnh đó, cần có cơ chế khuyến khích xã hội hóa, huy động sự tham gia của các tổ chức đào tạo tư nhân có uy tín, tổ chức quốc tế. Các học viện, trung tâm đào tạo cần được trang bị phòng học thông minh, thiết bị mô phỏng, thư viện điện tử, nền tảng dạy học trực tuyến hiện đại. Môi trường học tập tốt sẽ góp phần nâng cao hiệu quả, tạo động lực học tập và sáng tạo cho học viên.
Sáu là, gắn kết công tác đào tạo với quy hoạch, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ trẻ và đánh giá cán bộ, công chức, viên chức; có cơ chế khuyến khích, đãi ngộ phù hợp
Đào tạo cần gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực dài hạn. Việc tham gia các khóa học cần được coi là điều kiện bắt buộc trong quá trình quy hoạch, xét nâng ngạch, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo. Quy hoạch, phát hiện và đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ, có triển vọng là một bước đi chiến lược nhằm bảo đảm tính kế thừa và phát triển liên tục trong hệ thống chính trị. Cần xây dựng các cơ chế tuyển chọn công khai, minh bạch, khuyến khích những người trẻ có năng lực, tư duy sáng tạo và bản lĩnh chính trị mạnh mẽ tham gia vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Việc đa dạng hóa nguồn cán bộ – từ các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể đến khu vực tư nhân – sẽ tạo nên sự phong phú trong đội ngũ cán bộ tương lai.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này cần hướng đến hình thành tư duy phản biện, năng lực giải quyết vấn đề, làm việc nhóm và thích ứng với các thay đổi nhanh chóng của thế giới. Do đó, cần vận dụng hệ thống phương pháp luận hiện đại, coi trọng tính thực tiễn và tính ứng dụng cao, lấy các chuẩn mực quốc tế làm thước đo để định hướng chương trình đào tạo. Đồng thời, cần tạo môi trường học tập cởi mở, dân chủ, kích thích tư duy độc lập và khả năng sáng tạo.
Tóm lại, việc xây dựng một lực lượng cán bộ, công chức, viên chức có chất lượng vững mạnh không chỉ đảm bảo hoạt động của tổ chức diễn ra có chất lượng và hiệu quả, mà còn góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội. Đây là một quá trình liên tục, đòi hỏi sự cam kết và đầu tư dài hạn từ phía các cấp, các ngành trong bối cảnh mới. Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức là một trong những nền tảng quan trọng nhất cho sự phát triển của một quốc gia trước những âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Sự hỗ trợ liên tục, thường xuyên và nâng cao chất lượng trong việc đào tạo này sẽ định hướng tương lai của tổ chức, cơ quan, đơn vị và cả quốc gia, góp phần tạo nên một xã hội năng động, hiện đại và phồn thịnh trong thời kỳ mới.
ThS. Phan Hoàng Thăm (Trường PTDTNT Him Lam, ấp Thị Tứ, xã Thạnh Xuân)
[1] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 5, tr. 309.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết Hội nghị Trung ương & khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phảm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Hà Nội.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr. 135-136.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr. 27-28.
(5) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 5, tr. 309.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.1.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr.180.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 1, tr.182-183.
Tài liệu tham khảo
- Nguyễn Trọng Bình, Nguyễn Thị Ngọc Anh (2022), “Nhân dân là trung tâm – Một nguyên tắc trong hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam”, Tập chí Lý luận chính trị, số 537.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Hà Nội.
- Chính phủ (2017), điều 2, Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.
- Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 5.