Truyện ngắn của THƯỢNG DỸ
Đứa cháu dưới quê lên, chào hỏi tôi, tạt qua nói ba điều bốn chuyện gì đó với thiếm dưới bếp, uống vội ly nước, rồi đi lúc nào tôi cũng chẳng hay. Lát sau, vợ tôi lên, giọng nghiêm trọng:
- Anh Hai mới vừa bị tai biến, thiệt khổ?
Tôi bật dậy, sửng sốt:
- Cọp vật ảnh không chết, tai biến thế nào được! Hồi nào giờ có nghe nói ảnh bị huyết áp, tim mạch gì đâu, trời!
Vợ tôi chừng như chợt nhận ra cái sự “bé cái nhầm”, lật đật cải chính:
- Thằng Hải nói là gia đình anh Hai vừa bị nguy biến, bị tai họa lớn đó, ông ơi!
- Trời ạ, cũng lại là chuyện chữ với nghĩa - Tôi tỏ vẻ bất nhẫn, trách móc - Bà làm tôi thiếu chút nữa bị tai biến thật! Nguy biến, tai họa gì mà thằng Hải không nói ra được với chú ruột nó chớ?
Vợ tôi vừa bị cụt hứng, vội tìm cách gỡ gạc:
- Thì đó, chưa chi mà ông còn đong đỏng vậy, trách gì thằng Hải. Nó dám ở đó mà đầu đuôi gốc ngọn với ông mới là lạ à ! Chuyện nhạy cảm, chuyện tai vách mạch rừng mà ầm ĩ chi, không khéo lại hư bột hư đường ráo. Đến anh Hai mà còn ngậm bồ hòn thì đủ biết.
Chuyện là vầy...
Vợ tôi thong thả kể.
* * *
Sau Tết Mậu Thân, anh tôi vừa xong cái trung học đệ nhất cấp. Tình hình chiến sự ngày càng trở nên quyết liệt, nghẹt thở. Lứa anh tôi số người bị bắt lính, số bỏ vào bưng, còn anh tôi thì vào... chùa. Anh gọi bước ngoặt này chẳng qua là để “ẩn dương nương phật”. Nào ngờ, hòa bình lập lại, các chư huynh đệ của anh hồ hởi, phấn khởi “xuống núi”, cưới vợ lo làm ăn thì anh lại một mực chọn lấy con đường “tu là cội phúc”. Ba tôi bắt đầu trầm ngâm. Còn má tôi thì khóc hết nước mắt.
Năm tôi học lớp Năm trường làng thì ba má tôi có cho hai cô giáo mới ra trường tình nguyện đi phục vụ vùng sâu, vùng xa về nhà tá túc. Vừa là để tạo điều kiện cho các cô an tâm công tác, là để giữ chân các cô, tiện thể là để có người kèm cặp tôi, sợ tôi ham chơi, lên lớp sáu học không lại mấy đứa trên thị trấn. Trong hai cô, cô Hạnh là người cần được quan tâm, chia sẻ nhiều hơn. Tôi nghe nhiều lần ba tôi nhắc má tôi như vậy. Gia đình cô ấy trên thành phố đều đã vượt biên. Vị hôn phu của cô được gia đình phái xuống đón cô về cùng đi đã không làm tròn trách nhiệm. Anh ta sợ lỡ chuyến, chỉ chạy loanh quanh rồi về lại để kịp tháp tùng cả gia đình nhà vợ tương lai. Gần cả tháng sau, chỉ khi cô giáo Hạnh khăn gói trở lại thành phố thăm gia đình xem đã dọn đi kinh tế mới chưa, thì mọi sự mới vỡ lẽ. Một cú sốc quá lớn đối với đứa con gái từ nhỏ vốn được “cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa” . Không còn chỗ nương thân, cô Hạnh đành lặng lẽ trở lại trường để được thấy mình còn cần thiết biết bao nhiêu đối với lũ trẻ khao khát đủ thứ trên đời ở cái mảnh đất “khỉ ho cò gáy” này. Hồi ấy, như vậy đã coi là chấm hết. Nhưng với cô Hạnh, mọi sự chỉ kết thúc khi vài tháng sau có người nhắn tin gia đình cô vẫn còn kẹt ngoài đảo. Còn anh chàng hôn phu của cô đã vừa kịp níu váy một cô gái khác, con một gia đình đã được giấy phép tị nạn ở một quốc gia Bắc Âu.
Dạo sau này, cứ mỗi cuối tuần ai về nhà nấy thì cô Hạnh lại một mình thui thủi mang nhang đèn lên công quả trên chùa. Đã có lời xầm xì đồn thổi: không chừng cô muốn xuống tóc quy y, nương thân nơi cửa phật hệt như trong vở tuồng “Lan và Điệp” đang làm hao tốn bao nhiêu nước mắt của bà con mình ở đây khi được đi xem ké ti-vi của nhà Chệt Lũy.
Một bữa tôi đi học về sớm, thấy nhà có khách, bèn nhẹ nhàng dắt xe đạp vòng ra cửa sau. Vén màn lén nhìn, thì ra là sư ông trên chùa xuống nói chuyện với ba má tôi:
- Trí Kỉnh nó có căn tu, nhưng căn phần của nó phải còn chìm nổi. Tôi nói vậy để ông bà biết mà liệu định cho cuộc đời cháu nó. Thôi thì, tu đâu cho bằng tu nhà. Vả lại, cứu vớt được một số phận không may, đem lại hạnh phúc cho người ta có khi còn phước đức hơn tu chín kiếp nữa đó.
Tôi còn chưa kịp hiểu trời trăng mây nước gì thì - chắc là đã có sự sắp đặt sẵn, anh tôi và cô giáo Hạnh khép nép dắt tay nhau bước vô ra mắt ba má tôi. Sư ông cáo từ ra về. Cả nhà tôi vui như tết. Tôi nhảy cẫng ra giữa nhà.
Sau lễ cưới tổ chức gọn nhẹ kiểu như lễ tuyên bố, anh Hai tôi làm như mắc cỡ, cứ tủm tỉm cười một mình. Một bữa, ông Năm Gà Mỗ bên cạnh nhà bắt gặp, hỏi trêu:
- Thằng Hai mày ngon hén, chơi nguyên bài luôn nghen! Tu là cội phúc rồi gì nữa mậy?
Như đã định bụng sẵn, anh Hai tui đáp tỉnh rụi:
- Thì tình là dây oan chớ sao nữa, bác Năm.
Tiếng hai bác cháu cười vang khắp cả một khúc sông.
“Oan nghiệt” đâu không thấy, chỉ thấy mới chỉ có mấy tháng sau mà cái bụng chị Hai tôi chong bóc. Đẻ ra thằng Hải, ba má tôi mừng như bắt được một cục vàng. Thằng Hải vừa đầy tháng, chị Hai tôi bắt được cả khối vàng, vàng thật. Số là trước lúc ra đi, ba chị đã bí mật gởi hai chục cây vàng cho một người thân tín đâu trên Bình Dương, phòng hờ bất trắc, trở lại còn có cái làm vốn để sống qua ngày chờ... đi chuyến khác. Giờ bên đó đã ổn định rồi, lại chỉ đạo về cho người kia tìm cho bằng được chị Hai tôi giao lại vàng kèm theo một kế hoạch “tuyệt mật” biểu chị khẩn trương dùng số vàng đó để toan tính cho một cuộc đoàn tụ... ở xứ người. Chị nói hết với anh. Anh tôi rất tin vợ vì biết giờ có bứng chị cũng không đi đâu hết. Nhưng để thủ chắc, để vợ không còn cơ hội để mà tơ tưởng đến chuyện “không nên” ấy, anh bàn với vợ mua lại chiếc xe khách của Chệt Lũy. Xe thì thuê người chạy tuyến thị trấn ra thị xã, anh đứng lơ cơm. Số của “hồi môn” bất đắc dĩ còn dư, anh chị mua miếng đất, cất cái nhà ngay cửa vào thị xã, chị buôn bán lặt vặt cốt dành cho con sau này.
Công chuyện làm ăn đang xuôi chèo mát mái, không biết ất giáp gì, anh đòi một hai phải bán nhà, bán xe về thị trấn sống. Lúc này ba tôi đã mất, tôi phải đi học xa, nhà chỉ còn bà mẹ. Anh nói về để lo hương khói cho ba tôi, để phụng dưỡng cho má tôi. Ai nấy nghe đều khen anh biết hiếu nghĩa - Vậy chớ sao! Người ta dù gì cũng đã từng kinh kệ, đạo hạnh đó!...
“Củi đậu nấu đậu”, người quen được anh nhượng lại chiếc xe sau này trở thành giám đốc một công ty vận tải với mấy chục đầu xe. Còn anh về dưới này, làm chủ nhiệm hợp tác xã xe lôi gắn máy cũng với mấy chục đầu xe của người ta hùn vô. Hỏi anh có tiếc không. Anh trợn mắt, hỏi lại:
- Tiếc gì mậy?
Rồi trước vẻ ngơ ngác cố hữu của tôi, anh lên giọng của một kẻ đã “tri thiên mệnh”.
- Có gan làm giàu, ông bà mình nói không sai đâu. Không phải anh mày nhát, nhưng gan cái kiểu “không nên” đó thì anh mày xin cáo thối. Làm nghề xe thì phải đụng mặt với những thứ “không nên”như cơm bữa. Ai nghĩ sao cũng được. Miễn là mình càng tránh xa những chuyện “không nên” chừng nào càng tốt, vậy hà!
Anh tôi nói như tự dặn lòng rồi đứng dậy khật khưỡng bỏ đi, tay nhịp lia lịa vào không khí, có vẻ như lấy làm tự đắc lắm vậy.
* * *
Thằng Hải tốt nghiệp lớp 12, anh tôi đã “định hướng” cho nó phải ở lại quê làm anh giáo làng. Anh nói nghề dạy học đỡ phải bon chen, lại có hậu. Ngặt thằng nhỏ không chịu. Không biết nó thấy sao mà nói nghề đó bạc bẽo lắm. Thằng này nghĩ vậy, nói vậy có chi không đúng, nhưng sao lại bắt nó phải chọn cái công việc mà nó không hề có chút ham mê nào. Tôi đem chuyện thằng Hải ra hỏi anh. Gặng mãi anh mới nói thật là anh muốn “phòng thủ từ xa”, sợ thằng nhỏ sớm phải sống chung với những thứ “không nên” trên thành phố. À, ra vậy!
Cũng may là lúc đó tôi đã có công việc làm ổn định, có nhà cửa cũng tương đối coi được trên này. Sẵn má tôi cứ đau rề rề hoài nên tôi bàn với anh rước má tôi về để vợ chồng tôi tiện việc chăm sóc. Anh cũng thấy điều kiện ở dưới đó khó thật nên đồng ý. Sau đó, lấy cớ vợ chồng tôi dạo này thường phải đi công tác các tỉnh, xin anh cho thằng Hải lên đỡ đần chúng tôi chăm nom bà. Nhờ “hoàn cảnh” vậy mà thằng Hải mới có cơ hội luyện thi và thi đậu vào đại học. Việc đã rồi nên anh cũng đành. Anh yên tâm một phần cũng nhờ con bé Thảo, đứa con gái út của anh chị cũng lớn đại rồi. Nó vừa mới được tuyển vào lớp 6 trường ở ngay thị trấn. “Có nó hủ hỉ, hai vợ chồng mới khỏi phải thấy mình như hai con khỉ già cô độc”. Anh nói, giọng của sadi Trí Kỉnh ngày chưa hoàn tục có khác.
* * *
Ba năm trước, má tôi đã theo về với ba tôi, khi đưa vợ con cùng vợ chồng thằng cháu Hải về kỵ giỗ ông già, mọi người mới bật ngửa ra. Anh tôi đã dọn nhà về cồn Bà Trang, ở ngay trên phần đất cố cựu của ông nội tôi. Cồn Bà Trang nằm nép mình dọc theo bờ bắc con sông Tiền hiền hòa giống in hình con cá lẹp. Hồi chiến tranh bà con quen gọi là xóm tản cư, là chỗ đi về của dân xóm chợ Cũ, xóm Chùa mỗi khi nghe rục rịch có đánh nhau. Giờ có người tếu táo gọi là xóm Mồ Côi, nghe ngồ ngộ rồi thành danh luôn. Mấy mươi năm thành thị hóa nông thôn, chỗ nào cũng thay da đổi thịt để ra vẻ chợ búa, văn minh mà nó thì vẫn vậy. Cảnh vẫn hẻo, người vẫn nghèo, đứng cam phận bên lề cuộc đua tốc độ ấy, thấy tội nghiệp mà gọi một cách trừu tượng vậy chăng?
- Anh về tuốt bên này hồi nào mà chẳng tin cho ai biết trước gì ráo?
- Biết trước hay biết sau thì có gì khác nhau đâu? Ai mà chẳng có lúc phải về nương náu nơi đã chôn nhau cắt rún mình, chú.
Anh tôi đã thay đổi cách xưng hô, nghe mềm hơn nhưng tính tình anh tôi vẫn không thay đổi gì.
Xế chiều, lúc hai chị em ngồi nhổ lông con vịt xiêm ngay sàn nước thì chị Hai tôi mới thủ thỉ.
- Đất bên Chợ Cũ họ qui hoạch hết rồi. Đương làm ăn ngon lành, giao đất lãnh một đống tiền rồi vô khu tái định cư ngồi ngáp ruồi nên mới sinh chuyện.
- Chuyện gì?
- Đàn ông thì tối ngày tụ tập nhau nhậu. Nhậu tăng một chưa đã, kéo nhau đi tăng hai, tăng ba: Chịu nỗi không? Mấy bà thì nào bài bạc, nào số đề, hứng hứng rủ nhau đi đánh ghen, dậy sóc hết. Chịu nỗi không? Đám choai choai đứa nào cũng sắm xe phân khối lớn, rồi những cuộc đua xe kinh hoàng, những vụ thanh toán đẫm máu y như trong phim. Chịu nỗi không?
- Vậy thì nhà ai nấy ở, cây ai nấy rào. Mắc mớ gì mà mình cứ chui nhủi hoài vậy!
- Không mắc mớ sao được, chú! Bọn ác nó thấy chú sợ rồi bộ nó để yên cho nhà chú chắc? Cũng bị cứ nghĩ hoài vậy nên anh Hai chú mới bị “sốc” đó. Nhà mình hồi giờ có dám đụng chạm gì ai đâu. Vậy mà ở chỗ gốc mai trăm tuổi ông nội để lại đó, cứ sang sáng mình lại phải ra thu dọn hàng tá kim tiêm tụi nó hành sự đâu đó bỏ lại như một lời cảnh báo đầy thách thức, ngạo nghễ: “Bọn tao đã tới. Giữ mình đi!”. Chịu nỗi không? Nó làm vậy là để dằn mặt anh chú đó. Nó biết là ổng quá rành mặt thằng nào giao hàng, nhận hàng, đứa nào bị nhiễm, đứa nào mới dính. Mà phải ổng có chỉ chọc gì cho cam!
Tôi im lặng, nặng nề đứng đậy, lê bước vào nhà, thấy anh tôi đang chỉnh sửa cái bơm đèn măng - xông hồi thời ông cố lũy. Tội cho anh, mà cũng mừng cho anh.
* * *
Giờ nghe vợ thuật lại, tôi rụng rời. Anh tôi hơn nửa cuộc đời vẫn ghét cái ác. Sợ nó thì đúng hơn. Anh không muốn vướng vào nó, không muốn sống chung với nó, vậy mà cuối cùng nó vẫn không buông tha anh. Nó đã tát anh một cái như trời giáng. Con bé Thảo đang học lớp 12 trên chợ huyện bị đám bạn trai cùng lớp lừa, bị đánh thuốc mê, bị chụp hình lõa thể ngay trong miếng vườn của gia đình một đứa trong bọn trên đầu xóm Mồ Côi này. May có người phát hiện kịp, nếu không thì không biết còn xảy ra chuyện gì khủng khiếp hơn nữa. May mà bên công an họ can thiệp đúng lúc bọn kia định tung mấy bức ảnh khốn nạn kia lên mạng để chứng tỏ rằng ta đây chính là dân chơi sành điệu, đâu có kém cạnh bọn công tử trụy lạc trên thành phố. May mà các ban ngành, đoàn thể, bà con chòm xóm đồng lòng vào cuộc. Đơn giản là vì họ thương đứa con gái đẹp người đẹp nết, chăm học chăm làm, không điều tiếng, chẳng đua đòi. Đơn giản còn là vì họ thông cảm và muốn chia sẻ với gia đình anh tôi, một gia đình mà nếu không vướng vào cái khuyết điểm là chỉ biết an phận thủ thường thì dư sức để được bình chọn là gia đình tiêu biểu ở xóm Mồ Côi. Tất nhiên, trên hết là vì họ muốn bảo vệ họ, bảo vệ cuộc sống của một miền quê yên ả, từng chịu nhiều thiệt thòi trước những cơn sóng lạ len lỏi trong làn sóng văn minh đô thị đang sừng sững ngay trước mặt họ. Họ nói con bé chỉ là nạn nhân, gia đình anh chỉ là nạn nhân và nói cho chí lý thì bọn kia cũng chỉ là nạn nhân mà thôi, nạn nhân của cái ác. Họ chỉ tuyên chiến với cái ác, mà lạ thay anh tôi là người hăng hái nhất trong cái đội quân quyết tử ấy.
* * *
Tôi về, hai anh em ngồi nói chuyện dưới bến sông.
- Con Bé Thảo, sao rồi?
- Nó vẫn tạm trú trong chùa, vừa làm công quả vừa để tĩnh tâm.
- Còn chuyện học hành của nó?
- Có các thầy trên đó lo. Nó vẫn phải thi tốt nghiệp chớ sao!
- Rồi sao đó?
- Sau vụ đó, tự nhiên thấy con nhỏ mạnh mẽ hẳn lên. Nó nhất định thi vào đại học an ninh. Vợ chồng tôi ủng hộ hết mình. Tính là tính vậy chớ không biết nó có vô nổi không nữa...
- Anh định chuyển qua kinh doanh vật tư xây dựng à?
- Đâu có! Số xi-măng, sắt, thép kia là để chuẩn bị khởi công xây cầu đó chớ.
- Nói sao mà mấy ông bô lão đồng ý cho xây?
- Trước mấy ổng sợ có cây cầu, tụi quậy quạng nó luồn tuôn qua bên này thì còn gì là “bản sắc” xóm Mồ Côi. Vụ kia xảy ra ngay đầu xóm làm mấy ổng giật mình. Nói vậy cây cầu đâu có lỗi gì. Mấy ổng nghe thấu mới vuốt râu cười khà, gật đầu cái rụp. Mà sao chú nó lại thở phào nghe vẻ nhẹ nhõm vậy?
- Tôi tưởng...
- Tưởng tôi chuẩn bị rút dù nữa, phải không?
- Thì mấy lần trước chẳng phải anh vẫn... vậy đó sao.
- Tưởng anh chú điên chắc. Rút lần nữa thì chỉ có nước xuống ở với Hà Bá.Chú không thấy cùng đường rồi sao. Đây xuống đó chỉ có mấy bước... ha...ha! Yên tâm đi! Anh chú biết mình phải làm gì rồi mà. Ha... ha...ha!
Anh cười. Tiếng cười nghe lạ lắm! Thương anh thiệt. Và cũng mừng cho anh. Mừng thiệt!